Nhà Nguyễn tồn tại ở một giai
đoạn có nhiều biến cố trong lịch sử dân tộc. Cho nên có những vấn đề cần phải
đi sâu, xem xét để đánh giá nhà Nguyễn cho thỏa đáng. Trong bài này chúng tôi
đề cập đến một trong những vần đề quan trong trong thời nhà Nguyễn ở nửa đầu
thế kỷ XIX: “Chính sách ruộng đất với
hình thức khẩn hoang doanh điền ở đồng bằng Bắc Bộ”.
1. Hình thức khẩn hoang “doanh điền” ở thời
Nguyễn
Trước hết có
thể thấy rằng nước Đại Việt từ thế kỷ XIX là một quốc gia phong kiến hung mạnh,
xây dựng trên cơ sở kinh tế nông ngiệp trồng lúa nước phát triền cao, một nền
văn minh nông nghiệp rực rỡ ở Đông Nam Á. Sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp một mặt đòi hỏi phải cải tiến kỹ thuật, cải thiện chất lượng thâm canh
tăng năng suất, một mặt cũng không kém phần quan trọng là phải đẩy mạnh công
cuộc khai khẩn đất hoang, không ngừng mở rộng diện tích canh tác mới. Tiến hành
khai hoang là quy luật phát triển của sản xuất nông nghiệp, đồng thời đáp ứng
nhu cầu của dân số ngày một tăng. Đây là một nhiệm vụ tất yếu khách quan của
quốc gia phong kiến Đại Việt.
Từ bao đời
nay, tổ tiên chúng ta đã thực hiện công cuộxc khai hoang dưới nhiều hình thức
phong phú, đa dạng như khai hoang lập làng của nông dân, điền trang của quá
tôc, địa chủ, đồn điền của nhà nước…Trải qua hàng ngàn năm, sự lao động đó góp
phần mở mang ruộng đất, xóm làng và nâng cao đời sống con người.
Có thể nói
khai hoang là chính sách nông nghiệp tích cực; thông qua việc khai hoang, thái
độ của nhà nước đối với vấn đề ruộng đất được thể hiện rõ rệt.
Đầu thế kỷ XIX
tiềm năng đất đai của nước ta còn khá phong phú, kể cả ở Nam Bộ và vùng duyên
hải đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên tiềm năng đó có được khai thác hiệu quả hay
không còn phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của nhà nước. Các vua Nguyễn đã áp
dụng các biện pháp và kinh nghiệm của ông cha ta trong lịch sử, tiếp tục thực
hiên các biện pháp khai hoang, thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Gia Long, kế
đó là Minh Mệnh rồi Thiệu Trị và Tự Đức, điều rất chú ý đến việc khai hoang.
Trong khoảng từ 1802 đến 1858, nhà Nguyễn đã ban hành 46 quyết định khai hoang
với các lực lượng được huy động tối đa và các phương thức khẩn hoang khác nhau,
như: đồn điền, doanh điền, tư nhân được nhà nước cấp vốn và tư nhân khai khẩn
tự do.[1]
Doanh điền là
một hình thức khai hoang do Nguyễn Công Trứ đề xuất và được triều Nguyễn giao
cho ông đích than thực hiện. với danh nghĩa Doanh điền sứ của triều đình. Hình
thức này được áp dụng lần đầu tiên vào năm 1828 ở vùng ven biển Nam
Định và Ninh Bình thuộc đồng bằng Bắc Bô. Bản điều trần của Nguyễn Công Trứ “Khẩn hoang ruộng hoang để yên nghiệp dân
nghèo” đã nêu lên một cách đầy đủ về xuất phát điểm, mục đích cũng như biện
pháp để thực hiện hình thức khẩn hoang này: “Đời làn ăn xưa, chia ruộng định
của, dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc, không có gian tà. Ngày
nay có những dân nghèp túngm ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp nhau trộm
cướp, cái tệ không ngăn cản được. Trước thần đến Nam Định mênh mông bát ngát, hỏi ra
thì dân địa phương muốn khai khẩn nhưng phí tổn nhiều không đủ sức. Nếu cấp
tiền công thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nước phí tổn không mấy
mà cái lợi tự nhiên sẽ vô cùng. Phàm các hạt xét thấy những dân tự đãng không
bấu víu vào đâu, đều đưa cả về đây. Như thế thì đất không bỏ hoang, dân đều làm
ruộng, phong tục kiêu bạc lại thành thuần hậu”[2].
Bản điều trần này cũng nói rõ về mục đích khẩn hoang: giải quyết ruộng đất choo
dân thì họ mới yên ổn làm ăn, không tụ họp nhau mà nổi loạn. Hơn nữa lại đáp
ứng được lợi ích thuế khóa do kết quả khẩn hoang đem lại, một vấn đề nan giải
của nhà nước phong kiến thời bấy giờ.
Trong bản điều trần khẩn hoang. Nguyễn Công Trứ cũng trình bày các biện pháp cụ
thể triển khai công việc: “Cho những người địa phương giàu có chia nhau trong
coi làm, mộ được 50 người thì là một ấp, cho làm ấp trưởng, đều tính đất chi
cho. Cấp cho tiền công để làm nhà, làm cửa, mua trâu bò nông cụ, lại lượng cấp
cho tiền gạo lương tháng trong hạn sáu tháng, ngoại hạng ấy thì cho lấy mà ăn,
3 năm thành ruộng đều chiếu lệ tư điền mà đánh thuế[3].
Doanh điền là
một hình thức khẩn hoang dưới thời Nguyễn được nhà nước cấp một phần nhu phí cho
dân khai hoang[4]:
Đơn vị
|
Số đinh
|
Tiền mua trâu bò
|
Tiền mua nông cụ
|
Tiền làm nhà
|
Tồng cộng
|
Lý
|
50 người
|
300 quan
|
40 quan
|
100 quan
|
440 quan
|
Ấp
|
30 người
|
180 quan
|
24 quan
|
60 quan
|
264 quan
|
Trại
|
15 người
|
90 quan
|
12 quan
|
30 quan
|
132 quan
|
Giáp
|
10 người
|
60 quan
|
8 quan
|
20 quan
|
88 quan
|
Về các khoản chi
cấp trên đây, nhà nước không phát bằng tiền mà phát bằng hiện vật cho người
khai hoang: “Cứ năm người thì phát một con trâu, mọt cái bừa, một cái cày, một
móng, một cuốc và một liềm, sức các ông chiêu mộ lĩnh về cấp phát[5].
Theo tờ nhận thực của những người đến khai hoang đầu tiên ở ấp Thủ Trung đè
ngày 18 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ mười (1829), thì số tiền 34 quan mua được 1
con trâu trị giá 30 quan, 1 cày trị giá 2 quan 5 tiền, 1 bừa giá trị 1 quan 5
tiền. Ngoài ra, cứ 5 đinh còn được cấp một cuốc, 1 thuổng và 1 liềm[6].
Mỗi người dân còn được cấp lương ăn trong 6 tháng. Chủ trương này của nhà nước
được nhân dân hưởng ứng ca ngợi.
“Ơn trên như bể sông dài
Cấp cho
mười xuất trâu cày một đôi
Lại cho
điền khí hẳn hoi
Thành tiền
các hạng rạch ròi trườc sau
……………………………………………..
Mỗi đinh
cấp một cái liềm
Năm tền một chiếc giá tiền không
sai”[7]
Mặc dù số tiền
chi phí đó không nhiều, nhưng sự giúp dỡ một phần của nhà nước là nguồn động
viên và hỗ trợ quan trọng cho công cuộc khai hoang. Trong quá trình thự hiện,
với tư cách là nhà doanh sứ - người trực tiếp tổ chức và chỉ đạo khai hoang –
Nguyễn Công Trứ còn đề ra những chính sách và biện pháp thích hợp để kết hợp
kinh phí có hạn của nhà nước với sự đóng góp của nhân dân, tận dụng tài lực,
vật lực của những người có của trong nông thôn và sức lao động của nông dân
nghèo khổ, trong đó có cả những người đã tham gia khởi nghĩa chống triều đính
(như cuộc khởi nghĩa của nông dân do Phan Bá Vành lãnh đạo).
Trong thực tế,
ở nhiều làng ấp của huyện Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) người chiêu
mộ đã đóng góp cả sức lực và tiền của vào công cuộc khai hoang lập ấp và đặc
biệt trong hàng ngũ chiêu mộ, ngoài một số xuất thân từ nông dân còn có cả
những địa chủ, và một số ít là hàng ngũ quan lại ở các địa phương.[8]
HÌnh thức khẩn
hoang doanh điền của nhà Nguyễn thực hiện ở đồng bằng Bắc Bộ đã thu được những
thành quả đáng khích lệ: mùa thu năm 1828, huyện Tiền Hải ra đời với diện tích
khai hoang được 18.970 mẫu và số đinh 2.350 người. Huyện được chia đặt thanh 7
tổng với 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp. Cuối năm 1829, Huyện Kim Sơn cũng
chính thức được ghi vào sổ sách của nhà Nguyển[9]
với 7 tổng, 60 lý, ấp, trại. Số ruộng khẩn hoang được là 14.620 mẫu chia cấp
cho dân nghèo 1.250 người. Tổng Hoành Thu (Giao Thủy – Nam Định) bắt đầu được
khai khẩn vào tháng 3/1828 đến đầu năm sau thì căn bản hình thành với 14 ấp,
trại, giáp có 385 mẫu ruộng và 301 đinh. Tổng Ninh Nhất cũng được thành lập với
9 làng, ấp, trại, giáp có 345 xuất đinh và 4120 mẫu ruộng đất.
Như vậy, chỉ
trong vòng 2 năm, 2 huyện Tiền Hải, Kim Sơn và 2 tỏng Hoành Thu, Ninh Nhất được
lập nên với 16 tổng, 154 lý, ấp, trại. Số ruộng đất khẩn hoang được là 38.095
mẫu và 4.264 đinh. Đó là một thành quả rất lớn, được đánh giá cao dưới thời
MInh Mệnh.
Song một vấn
đề mà các nhà nghiên cứu là từ trước đến nay vẫn quan tâm là người khai hoang
sẽ được hường thành quả đó ra sao? Chính sách của nhà nước đối với ruộng đất
khai ở hình thức khẩn hoang doanh điền như thế nào?[10]
2. Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn đối với
hình thức khẩn hoang doah điền ở đồng bằng Bắc Bộ.
Theo Đại Nam thực lục: “Trong số đất khẩn
hoang được cứ 100 mẫu, từ đình chùa, thổ trạch, đất mạ 30 mẫu, còn thành điền
70 mẫu. Cứ 15 mẫu thì đình làm nhất đẳng 1 mẫu, nhị đẳng 2 mẫu, tam đẳng 13
mẫu”. Tuy nhiên, “Thực lục” không cho chúng ta biết sở hữu các loại ruộng cũng
như quan hệ giữa tư điền và công điền.
Những tư liệu
còn lại tại các địa phương Tiền Hải, Kim Sơn và Hoành Thu. Ninh Nhất sẽ giúp ta
hiểu thêm về chính sách của nhà nước đối với ruộng đấy khẩn hoang ở đây.
Theo quy định
của nhà nước thì ruộng đất ở Tiền Hải là “Công điền quân cấp”. Theo nguyên tắc
của lệ “công điền quân cấp” thì ruộng được chia cấp đều cho dân đinh khai hoang
theo thời hạn 3 năm, hết 3 năm phải trả lại ruộng cho làng để chia lại. Quyền
sở huu34 là của nhà nước, làng ấp chỉ có quyền quản lý. Tuy nhiên,, ruộng “công
điền quân cấp” ở Tiền Hải có những đặc điểm riêng trong phân phối, nó không
giống chế độ quân điền thời Gia Long mà ở đó có sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt. Ở
đây mọi người có công khai hoang đều được hưởng quyền lợi như nhau. Bình quân
mỗi đinh được 6 mẫu. Trong thực tế có làng ấp được tới 10 mẫu, cá biệt có làng
lên tới 12 mẫu. Còn phần đông ở các làng bình quân cho 1 đinh là 8 mẫu[11].
Hơn nữa ruộng “công điền quân cấp” lại đượchưởng theo lệ thuế tư điền mà trong
đó ruộng loại 3 chiếm tới 80%[12].
Đó là một ưu đãi đối với người khai hoang,
Thuế ruộng đất
của các tỉnh từ Nghệ An trở ra Bắc dưới thời Minh Mệnh được quy định:
Loại ruộng
|
Ruộng công
|
Ruộng tư
|
Loại 1
|
120 bát/ 1 mẫu
|
40 bát/ 1 mẫu
|
Loại 2
|
84 bát/ 1 mẫu
|
30 bát/ 1 mẫu
|
Loại 3
|
50 bát/1 mẫu
|
20 bát/ 1 mẫu
|
Căn
cứ vào những văn bản của nhà nước thì toàn bộ ruộng ở Kim Sơn sau khi khai
hoang được giao cho các làng với danh nghĩa là công hữu. Theo pháp luật và tập
quán thì ruộng đất này thuộc công điềnchứ không phải tư điền. Nhưng để khuyến
khích người khai hoang, nhà nước cho nộp thuế như ruộng tư điền và khi chia,
nhười ta gọi đất này là “tư điền quân cấp”[13]
Đặc
điểm của cách phân chia ruộng đất này là: người đượcchia ruộng hưởng suốt đời,
nhưng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền mua bán. Khi người được cấp ruộng
chết đi, nếu không có con trai hoặc con trai chưa đến tuổi thành đinh thì phải
trả lại ruộng đó cho làng. Ruộng mới khai hoang sau 3 năm mới phải nộp thuế.
Về số lượng,
ruộng đất bình quân cho mỗi đinh theo chế độ “tư đi6èn quân cấp” là 10 mẫu[14].
Tuy nhiên, trong thực tế số ruộng đất này có dao động ít nhiều ở từng lý, ấp,
trại. Chế độ “tư điền quân cấp” ở Kim Sơn so với chế độ “công điền quân cấp” ở
Tiền Hải có những điểm giống và khác nhau: trước hết cả hai loại đều được hưởng
theo lệ thuế tư điền đó là một ưu đãi của nhà nước. Nhưng chế độ “công điền
quân cấp” ở Tiền Hải cứ 3 năm chia lại một lần nên sự luân chuyển người này
sang người khác sẽ nhanh chóng làm cho người khai hoang mất quyền sử dụng ruộng
đất và số lượng ruộng giảm đi do dân số tăng lên. Còn chế độ “tư điền quân
c6ap1” ở Kim Sơn cho phép người dân khai hoang được hưởng ruộng đất một đời,
thêm nữa lại được quyền để lại cho con trai đến tuổi thành đinh nên phần đất mà
làng chia cho họ được giữ tương đối lâu dài, vì vậy có những lúc nhân dân cũng
coi đó là tư điền[15].
Đó là sự chiếu cố nhiều hơn đến quyền lợi của người khai hoang, so với Tiền
Hải. Sự ưu ái đó là nguồn động viên quan trọng giúp mọi người khắc phục khó
khăn, giữ vững thành quả khai hoang mà họ vừa giành giật được trong cuộc vật
lộn với thiên nhiên đầy gian nan và vất vả.
Mặc dù đã có
phần ưu ái hơn ở Tiền Hải, chế độ “tư điền quân cấp” ở Kim Sơn về sau đã bộc lộ
những nhược điểm của nó. Trước hết việc chia đều ruộng đất không chiếu cố đến
công sức khác nhau bỏ ra trong khai hoang (giữa người đến trước và đến sau).
Mặc khác người khai hoang không có con trai hoặc có con trai nhưng chưa đến
tuổi thành đinh thì khi chết họ bị mất quyền sử dụng ruộng đất. Nhân dân Kim
Sơn đấu tranh đòi chia tất cả những ruộng đất đã có từ trước cùng với những
ruộng đất mới khai phá thành hai phần bằng nhau. Một nửa là tư điền, một nửa là
công điền, phần tư điền đã trở thành tư điền thế nghiệp (nghĩa là có quyền mua
bán và thừa kế), còn phần công điền sẽ là công điền công cấp[16].
Ngô Kim Lân lúc đó đang làm Tuần phủ Ninh Bình ủng hộ đề nghị của nhân dân Kim
Sơn và làm tờ sớ trình lên triều đình. Sau khi xem xet, bộ Hộ cho rằng chuyển
một nửa ruộng đất thành công điền thì công được. Vì lúc mới khai phá, nhà nước
đã chuẩn bị cho tư đi6èn, bây giờ nhà nước không thể làm trái với lời hứa ban
đầu. Tất cả ruộng đất (trừ đất vốn là đất công cụ và đất dành cho tư nhân) còn
lại vẫn là tư đi6èn. Nhưng chỉ có một nửa là tư điền thế nghiệp, một nửa là tư
điền quân cấp.
Vua Tự Đức
cùng Viện Cơ mật đồng ý với bộ Hộ và còn nói rằng: “Tại sao người ta không thấy
khi chuyển một bộ phận tư điền thành công điền là thuế má nặng hơn hay sao? Nhà
nước không thể làm như vậy”. Ngày 18 tháng 6 năm Tự Đức thứ nhất (2848), nhà
vua phê chuẩn cho phép ruộng đất ở Kim Sơn theo chế độ một nửa làm tư điền thế
nghiệp, một nửa làm tư điền quân cấp. Đồng thời chính sách nhà nước cũng quy
định thêm: ở các xã có những người được chia ruộng mất tích hoặc chết thì không
được thay bằng một người bên ngoài mới đến. Nghĩa là chỉ giải quyết việc chia
đất cho dân đinh trong xã chứ không thể chia cho người xã khác. Địa bạ trại
Hiếu Nghĩa năm Tự Đức thứ nhất ghi: quy định của trên cho ruộng đất của trại có
một nửa làm tư điền thế nghiệp, một nửa là tư điền quân cấp. Từ Hồng Lĩnh trở
xuống cấp ruộng thế nghiệp, nhất đẳng mỗi người 2 mẫu 1 sào, ruộng loại 2 mỗi
người một mẫu 8 sào, ruộng loại 3 mội người một mẫu, còn loại 4, loại 5 cho vị
cập cách, tùy nghi chiếu cấp đều có trong sổ. Còn lại ở nơi khác đã đặt làm
ruộng công, đất công, đều cấp cho trên dưới, sau này có người khai sinh sau đều
theo chế độ “tư đi6èn quân cấp”, nhưng từ năm 1848 ruộng này không được hưởng
một đời mà cứ 3 năm hoặc 6 năm phải chia lại.
Nhưng chế độ
ruộng đất này vẫn còn có những điều không thích hợp: số người đầu tiên đến Kim
Sơn nay đã hơn 20 năm, một số người nhiều tuổi hay bệnh tật đã chết, nếu họ
không có con trai hoặc con trai chưa đến tuổi thành đinh vẫn không được chia tư
điền thế nghiệp. Công lao của các nguyên mộ giờ đây cũng không hơn gì các tân
đinh, vì phần tư điền thế nghiệp và tư điền quân cấp đều như nhau. Vợ góa hay
con trẻ của các nguyên mộ chết trước 1848 không đượcchia tư điền thế nghiệp nên
một tất đất cũng không có[17].
Vì vậy nhân dân Kim Sơn lại kêu kiện và xin ban hành một chế độ ruộng đất mới.
Tờ “Bẩm” của các nguyên mộ ờ các lý, ấp, toàn huyện gửi lên cấp trên có đoạn”
“xin chiểu theo các vị nguyên mộ, ta6nmo65 và các ruộng khai khẩn từ đầu hoặc
mới khẩn được san cấp theo các hạng làm ruộng thế nghiệp. Lại xin lượng cấp cho
vợ con những người đã mất (của những nguyên mộ là cha hoặc chồng )để có chỗ
nương tựa không đến nỗi lưu vong”[18]
Như vậy, bốn năm
sau, từ khi có chế độ ruộng đất mới, các hương lý ở Kim Sơn lại đưa đơn xin xét
cho sự bất hợp lý của việc phân phối ruộng đất. Tuần phủ Ninh Bình lúc đó là Tôn
Thất Tịnh tiếp nhận đơn thỉnh cầu của dân làng, làm sớ tâu về bộ Hộ. Ngày 12 tháng
11 năm Tư Đức thứ 4 tức là ngày 2 tháng 1 năm 1852, nhà vua đã phê chuẩn cho ruộng
đất của Kim Sơn được thực hiện theo chế độ sau: tất cả những dân dân mộ lúc đó
chia làm 3 hạng, nguyên mộ, thứ mộ và tân mộ. Tư điền quân cấp không có gì thay
đổi, mỗi đinh tiếp tục nhận một phần ngang nhau, riêng tư điền thế nghiệp chia
theo tỷ lệ (10: 7: 5) chẳng hạn nguyên mộ được 10 mẫu thì thứ mộ được 7 mẫu và
tân mộ được 5 mẫu. Đối với con trai của nguyên mộ, thứ mộ chết trước năm 1848 được
chia một phần bằng thứ mộ. Nếu khôg có con trai thì người con trai nuôi cũng được
chia như vậy. Vợ goá hay con gái của nguyên, thứ mộ đã chết được chia một phần
bằng ½ của thứ mộ. Phần cho nguyên mộ, thứ mộ và con trai của nguyên, thứ mộ đã
chết được trao cho ọ vĩnh viễn (được tự do mua bán, để lại cho con cháu, sử dụng
theo ý kiến của họ). Riêng phần của vợ goá hay con gái của nguyên, thứ mộ đã chết
chỉ được hưởng hoa lợi, người con gái khi đi lấy chồng và người vợ goá sau khi
chết thì phải trả lại ruộng đất cho làng[19]
Chính sách trên
của đất nước được áp dụng tuỳ theo hoàng cảnh cụ thể ở từng lý, ấp, trại. Địa bạ
ấp Ứng Luật năm Tự Đức thú 5 cho ta biết về ruộng đất tư điền thế nghiệp được
chia cho mọi người như sau:
Chiêu mộ: 1 người 7
mẫu 4 sào
Nguyên mộ: 6 người 6
mẫu 9 sào/ người
Thứ mộ: 23 người 6 mẫu 4 sào/1 người
Tân mộ: 12 người 4 mẫu 4 sào/ người[20]
Địa bạ ấp Thủ
Trung năm Tự Đức thứ 6 cũng ghi số ruộng tư điền thế nghiệp của 67 người có ten
trong sổ của ấp. Trong đó có tên của một số phụ nữ có lẽ họ đã được hưởng theo
chế độ của nhà nước ban hành của năm Tự Đức thứ 4:
Chiêu mộ Dương
Công Nhuận : 8 mẫu 2 sào
Nguyên mộ: Mỗi người
được 4 mẫu 7 sào
Thứ mộ: Mỗi
người được 3 mẫu 9 sào
Tân mộ: Mỗi
người được 2 mẫu 9 sào[21]
Chiêu mộ Vũ Quốc Khuê: 7 mẫu
Địa bạ trại Ninh Mật (năm Tự Đức thứ 6) có đoạn
ghi rõ: “ Nguyên do là từ khi có trại đến nay ruộng của trại toàn quân cấp, không
có thế nghiệp. Theo lệnh chỉ của vua Tự Đức (năm thứ nhất) cho phép một nửa ruộng
là quân cấp, một nửa là thế nghiệp, do đó phân: “ Nguyên mộ 10 phần, thứ mộ 7
phần, tân mộ 5 phần”[22]
Ở ấp Duy Hoà, ruộng đấy tư thế nghiệp được
chia cho 5 hạng: nguyên mộ, thứ mộ, tân mộ, tòng mộ, và đáo tuế. Mỗi người được
một mẫu tư điền và một mẫu ruộng mạ. Riêng tòng mộ và đáo tuế không “thổ ương”.
Từ những cứ liệu
trên cho thấy, mặc dù qui định của nhà nược chia cho các nguyên mộ, thứ mộ và tân
mộ theo tỷ lệ đã quy định, nhưng trong thực tế vẫn có sự chênh lệch, tuỳ tình hình
ruộng đất và phân phối cụ thể từng làng ấp. Chế độ ruộng đất này dược duy trì
trong thời gian khá lâu ở Kim Sơn. Địa bạ thôn Yên Thổ năm Thành Thái thứ 10
cho thấy đến cuối thế kỷ XIX, chế độ này vẫn được duy trì.
Còn hai tổng
Hoành Thu và Ninh Thất (huyện Giao Thuỷ - Nam Định) cũng do Nguyễn Công Trứ chỉ
đạo khẩn hoang, thì chính sách ruộng đất của nhà nuớc đối với ruộng đất của nhà
nuớc đối với ruộng đất ở đấy có những nét vừa giống với chính sách áp dụng đối
với Kim Sơn (từ năm 1848 đến năm 1885), lại vừa giống Tiền Hải. Hai tổng ở liền
nhau, nhưng áp dụng chính sách khác nhau.
Ở Hoành Thu, mỗi nguyên mộ hoặc thứ mộ được
nhận 2 mẫu đất và ruộng làm tư điền. Tuy nhiên, tùy theo số lượng ruộng khai
hoang được ở từng lý, ấp, trại mà số tư điền, tư thổ có khác nhau (có làng mỗi
người được tới 2 mẫu 3 sào). Còn lại là công điền, tư thổ. Ở Ninh Nhất, ruộng đất
được chia làm 2 phần, một nửa là công điền, công thổ và một nửa còn lại là tư điền,
tư thổ. Các nguyên thứ mộ đều được nhận phần tư điền quản nghiệp, số lượng tùy
theo diện tích khai hoang được ở từng làng, ấp. Ở một số làng, mỗi đinh được 5
mẫu, có làng được tới 5 mẫu 8 sào, trong khi đó có làng chỉ có 4 mẫu 8 sào/ 1 đinh.
Còn công điền, công thổ thì phân cho các nhân đinh theo chế độ ruộng khẩu phần
(cứ 3 năm chia lại một lần )[23]
Nhìn lại toàn bộ chính sách ruộng đất của nhà
nước đối với ruộng đất khai hoang, hình thức doanh điền ở Tiền Hải, Kim Sơn và
Hoành Thu, Ninh Nhất (Giao Thủy – Nam Định ) dưới triều Minh Mệnh, chúng ta có
thể đi đến những nhận xét sau
3. Một vài
nhận xét.
Chính sách của
nhà Nguyễn nói chung đối với ruộng đất khẩn hoang là hình thức doanh điền và
chiếu cố, thoả mãn công lao của những người đi khai hoang, tuy rằng mức độ có
khác nhau: Công điền quân cấp ở Tiền Hải, Tư điền quân cấp ở Kim Sơn và chế độ
“nhất bán tư vi điền thế nghiệp, nhất bán vi điền quân cấp” ở Kim Sơn vào năm Tự
Đức thứ Nhất (1848) và bổ sung chính sách mới vào năm Tự Đức thứ 5 (1852), cũng
như ở hai tổng Hoành Thu và Ninh Nhất. Điều này đã thể hiện sự quan tâm của nhà
nước đến quyền lợi người khai hoang, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của dân nghèo
không có ruộng đất. Do vậy, ở một phương diện nào đó nó có tác dụng động viên,
khuyến khích nông dân trong việc giữ vững thành quả khai hoang và mở rộng diện
tích canh tác sau này.
Khuynh hướng
chung, nhà nước phong kiến và tập thể làng xã đều thống nhất trong việc giữ gìn
một bộ phận quan trọng ruộng đất công trong các làng xã mới vẫn được trôn trọng.
Điều này chúng ta dễ dàng nhận thấy ở chính sách ruộng đất của nhà nước đối với
Tiền Hải và tổng Hoành Thu, còn ở Ninh Nhất và đặc biệt ở Kim Sơn, kể cả sau 2
lần điều chỉnh bằng những chính sách mới, một bộ phận ruộng đất công vẫn còn tồn
tại.
Về mặt pháp lý,
việc nhà nước cho phép ruộng khai hoang ở hình thức doanh điền được hưởng lệ
thuế tư điền có thể nói là sự nhân nhượng của nhà nước về phương diện bóc lộ
thuế, đồng thời đây cũng là bước quyết định quan trọng trong việc thừa nhận quyền
tư hữu hoá những ruộng đất khẩn hoang. Điều này ngay dưới thời Minh Mệnh và sau
này thời Tự Đức vẫn được duy trì. Như vậy, đề nghị của Nguyễn Công Trứ trong bản
điều trần khẩn hoang “…cấp cho tiền công để làm nhà cửa, mua trâu bò nông cụ,
ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng đều chiếu lệ tư điền mà đánh
thuế” đã được nhà nước chấp nhận và thực hiện.
Đến đây chúng ta cũng có thể lý giải một điều
mà các nhà nghiên cứu trước nay vẫn băn khoăn; đó là sau khẩn hoang ruộng đất ở
Kim Sơn, Tiền Hải thuộc sở hữu công hay tư? Công điền hay tư điền?[24].
Theo chúng tôi, xét về mặt pháp luật và tập quán là công điền nhưng thực chất là
tư điền. Vấn đề này có thể thấy qua địa bạ của làng Thanh Giám (Tiền Hải) vào năm
MInh mệnh 13 (1832) tức chỉ 3 năm sau công cuộc khai hoang thành lập huyện Tiền
Hải da94 hoàn toàn không có ghi công điền[25].
Còn ở Kim Sơn với chế độ tư điền quân cấp và sau này từ 1848 về sau với chế độ
một nửa là tư điền quân cấp, một nửa là tư điền thế nghiệp đã làm cho quá trình
tư hữu hoá ruộng đất ở đây diễn ra ngày càng nhanh. Bàn “Vũ tộc chúc thư” mà chúng tôi sưu tầm được qua đợt đi điền dã và
nghiên cứu ở Kim Sơn là một dẫn chứng điển hình[26].
Có nghĩa là trên thực tế với thời gian ruộng khai hoang sẽ trở thành ruộng đất
tư hữu nhưng trên quan niệm thì vẫn là công và tập thể làng xã. Còn phép nước
chung thì đã cho phép xem ruộng khai hoang như ruộng tư hữu.
Cuối cùng chính sách của nhà Nguyễn đối với
ruộng đất theo hình thức khẩn hoang doanh điền một mặt phản ánh xu thế phát triển
tất yếu của lịch sử đó là xu hướng tư hữu hoá ruộng da961t ở nửa da96ù thế kỷ
XIX nhưng mặt khác nó cũng tạo điều kiện cho sự củng cố kinh tế sở hữu tư nhân,
góp phần ổn định sản xuất nông nghiệp và do đó về khách quan nó cũng thúc đẩy nền
kinh tế hàng hoá phát triển.
ß
Khoa Sử - Đại học sư phạm Hà Nội
[1] Trương
Hữu Quýnh – Đỗ Bang: Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới
triều Nguyễn. NXB Thuan Hóa, Huế, 1997, tr. 43
[2] Đại Nam
Thực Lục Chính Biên, tập IX đệ nhị kỷ, NXBKHXH, 1964, tr.33, 34
[5] Lê Thước:
Sự nghiệp và thơ văn của Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, NXB Lê Văn Tân,
1928, tr.37
[6] Nguyễn
Văn Đa: Nguyễn Công Trứ nhà khẩn hoang lỗi lạc của thế kỷ XIX. Nghiên cứu kinh
tế số 47, 1979.
[7] Kim sơn
sự tích doanh điền ca. Tư liệu sưu tầm tại địa phương.
[8] Bùi Quý
Lộ: Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Tiền Hải, Luận án PTS Lịch sừ, Hà Nội
1987
[9] Đại Nam
Nhất thồng chí, tập 3. NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1971
[10] Nguyễn
Đức Nghinh: Về quyền sở hữu ruộng đất khẩn hoang dưới thời phong kiến, Tạp chí
NCLS, số 5/6/1987
[11] Bùi quý
Lộ, Tài liệu đã dẫn
[12] Đại nam
thực lục –sđd.
-
Thuế lệ - năm Minh Mệnh thứ 15 – Bản chữ Hán sưu tầm
tại Kim Sơn.
-
Thuế: ghi trong cuốn Đinh bạ trại Tuần Lễ - Bản chữ Hán
sưu tầm tại Kim Sơn.
-
Hội điển – Phần bộ Hộ - Q. 36, 37
[13] Souvignet:
Régime foncier du huyen de Kim Son. Revue Indochinoise, 1905.
[14]
Souvignet: Régime foncier du huyen de Kim Son. Revue Indochinoise, 1905.
[15] “Bẩm”
của các hào lý, lương mục huyện Kim Sơn lên cấp trên. Bản chữ Hán, Tự Đức năm
thứ 3. Tài liệu sưu tầm tại địa phương.
[16]
Souvignet – sđd, tr. 558, 560
[17]
Souvignet – sđd, tr. 558, 560
[18] “Bẩm”
tài liệu dã dẫn
[19]
Souvignet – sđd, tr. 561
[20] Địa bạ ấp
Ứng Luật năm Tự Đức thứ 5 - Bản chữ Hán sưu tầm tại địa phương
[21] Địa bạ ấp
Thủ Trung năm Tự Đức thứ 6 - Bản chữ Hán sưu tầm tại địa phương
[22] Địa bạ
tr ại Ninh M ật Tự Đức thứ 6 - Bản chữ Hán sưu tầm tại địa phương
[23] Phan Đại
Doãn: Mấy vấn đề công cuộc khai hoang thành lập 2 tổng Hoành Thu – Ninh Nhất. Tạp
chí NCLS số 3. 1982
[24] Nguyễn Đức
Nghinh: Về quyền sở hữu ruộng đất khai hoang dưới thời phong kiến. Tạp chí NCLS
số 5+6/1987
[25] Bùi Quý
Lộ: Thêm một số ý kiến về chế độ ruộng đất ở Tiền Hải nửa đầu thế kỷ XIX. Tạp
chí NCLS số 5/1986
[26] Theo bản
“Vũ tộc chúc thư” của họ Vu ở Thủ Trung viết nam Tự Đức thứ 21 thì cụ Vũ Quốc Khuê
là nguyên mộ ấp sào ruộng trong khi đó khai trong địa bạ của ấp năm Tự Đức thứ
6 cụ chỉ có 9 mẫu 5 sào.
No comments:
Post a Comment