TS. Đàm Thị
Uyênß
Huyện Quảng
Hòa nằm ở phía đông tỉnh Cao Bằng, cách thị xã 45 km. Phía Đông giáp huyện Hạ
Lang (Cao Bằng) và huyện Long Châu (tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc), phía tây giáp
huyện Hòa An và huyện Thạch An, phía nam giáp huyện Thạch An, phía bắc giáp
huyện Trà Lĩnh và huyện Trùng Khánh. Sách “Đại
Nam nhất thống chí” ghi huyện Quảng Hòa ở cách phủ 69 dặm về phía đông, đông
tây cách nhau 88 dặm, nam bắc cách nhau 115 dặm, phía đông đến địa giới Long
Châu nước Thanh 74 dặm, phía tây đến địa giới huyện Thạch Lâm và Thạch An 14
dặm, phía Nam đến địa giới huyện Thạch An 51 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Thượng Lang, Hạ Lang (Cao bằng) và châu
Quy Thuận nước Thanh 64 dặm[1].
Trên cơ sở xử
lý số liệu của các đại bạ thuộc 26 đơn vị ở Quảng Hòa chúng tôi đạt được một số
kết quả:
1. đặc điểm của chế độ ruộng đất ở Quảng
Hòa 1805, 1840
Với những số
liệu tổng quát ghi trong phần đầu của các địa bạ, chúng ta có bảng sau:
Bảng 1: bảng so sánh sự phân bố của các loại ruộng đất của Quảng Hòa[2]
Loại ruộng
|
Năm Gia Long 4 (1805)
|
Năm Minh Mệnh 21 (1840)
|
||
Diện tích
|
%
|
Diện tích
|
%
|
|
Thực ruộng
|
5009.8.1.2.0
|
94,36
|
5878.2.1.9.0
|
100%
|
- Tư điền
|
4573.0.8.1.0
|
86,14%
|
5142.5.9.7.7
|
84,49%
|
- Tư Thổ
|
434.3.8.1.0
|
8,17%
|
556.9.14.9.0
|
9,48%
|
- Công Thổ
|
2.4.0.0.0
|
0,04%
|
52.5.1.7.7
|
0,89%
|
- Công điền
|
|
|
126.1.5.5.5
|
2,14%
|
Lưu hoang
|
299.3.14.6.0
|
5,64
|
|
|
- Tư điền
|
299.3.14.6.0
|
5,64
|
|
|
Tổng cộng
|
5309.2.0.8.0
|
100%
|
5878.2.1.9.9
|
100%
|
(Bảng so sánh trên dự trên 26 xã có địa bạ
hai thời điểm lịch sử 1805, 1840)
Tính từ năm
1805 đến 1840, tức là sau 35 năm, tổng diện tích ruộng đất của 26 đơn vị xã
thôn tăng lên đáng kể 569.0.1.1.0, ruộng đất lưu hoang được phục trưng. Như
vậy, đến năm 1840, tình hình ruộng đất bỏ hoang ở Quảng Hòa cơ bản được khắc
phục.
Đặc điểm nổi
bật trong phân bố ruộng đất của Quảng hòa giữa hai thời điểm là từ chỗ chỉ có 2
mẫu 4 sào đất công (1805) thì đến năm 1840 loại ruộng này đã xuất hiện ở đây do
phục trưng ruộng lưu hoang và chiết cấp từ tư điền sang số lượng 178.6.7.2.5,
toàn bộ công điền, công thổ chủ yếu do bản xã đồng canh. Có thể nói, tư tưởng
phục hồi và mở rộng bộ phận ruộng đất của Minh Mệnh trên một chừng mực nào đã được thực hiện ở huyện
miền núi biên giới Quảng Hòa.
2. Tình Trạng sở hữu ruộng đất tư.
Như trên đã
nói, do chính sách mở rộng bộ phận ruộng đất công của Minh mệnh số ruộng đất tư
của Quảng Hòa không những không bị giảm đi mà còn tăng lên đáng kể. Để thấy rõ
hơn sự biến đổi trong mức độ sở hữu của các chủ tư hữu chúng tôi lập bảng so
sánh sau:
Bảng
2: So sánh quy mô sở hữu ruộng
đất tư.
QUY MÔ SỞ HỮU
|
NĂM GIA LONG 4 (1805)
|
NĂM MINH MỆNH 21 (1840)
|
||
Số chủ %
|
Diện tích sở hữu %
|
Số chủ
|
Diện tích sở hữu %
|
|
< 1 mẫu
|
22=3.24
|
13.3.10.6.0=0.29%
|
36=0.46%
|
23.0.12.0.5.0=0,45%
|
1 ->5 mẫu
|
243=35,84%
|
710.7.13.2.0=15,54%
|
428=48,31%
|
1192.9.14.4.0=23,2%
|
5 -> 10 mẫu
|
294=43,36%
|
2019.5.3.6.8=44,16%
|
310=34,99%
|
2087.0.13.4.0=40,59%
|
10 -> 20 mẫu
|
99=16,60%
|
1281.6.4.4.2=28,03%
|
89=10,05%
|
1120.3.14.2.7=21,79%
|
20 -> 40 mẫu
|
19=2,80%
|
490.6.11.1.0=10,73%
|
19=2,14%
|
459.1.12.0.0=8,93%
|
40 -> 70 mẫu
|
1=0,15%
|
57.0.10.10=1,25%
|
2=0,23%
|
83.4.13.5.0=1,62%
|
70 -> 100 mẫu
|
|
|
2=0,23%
|
176.3.4.7.0=3,42%
|
Tổng cộng
|
78=100,00%
|
78.0.8.10=100%
|
86=100,000%
|
142.5.9.7.7=100%
|
Do việc phục
hồi ruộng đất công của Minh Mệnh, một số ít tư điền bị chiết cấp làm công điền
và chủ yếu là phục trưng ruộng đất lưu hoang làm công điền, công thổ.
Bình quân sở
hữu của một chủ ở Quảng Hòa cuối thời Minh Mệnh (1840): 5.8.0.6.3 nếu so với bình
quân ruộng đất thời điểm Gia Long 4 (1805): 6.7.6.7.3 thì rõ ràng bình quân sở
hữu ở giai đoạn cuối Minh Mệnh thấp hơn 0.9.6.1.0.
Phân tích các
số liệu ở bảng trên có thể thấy:
Năm 1840, tổng
số chủ sở hữu tăng lên so với năm 1805 (886-678) là 208 người, nhưng sự gia
tăng đó không phân bố đồng đều cho các lớp chủ sở hữu.
Lớp chủ sở hữu
từ dưới một mẫu tăng thêm 0,82% về số chủ, 1,16% về diện tích. Trung bình sở
hữu 1 chủ tăng từ 0 mẫu 6 sào 1 thước 1 tấc 6 phân lên 0 mẫu 6 sào 6 thước 1
tấc 8 phân.
Lớp sở hữu từ
1 đến 5 mẫu tăng thêm 2,47% số chủ và diện tích cũng tăng 7,66%. Bình quân sở
hữu giảm 2 mẫu 9 sào 3 thước 6 tấc 6 phân xuống còn 2 mẫu 7 sào 13 thước 1 tấc.
Lớp chủ sở hữu
từ 5 đến 10 mẫu giảm 8,37% số chủ và giảm 3,57% về diện tích, bình quân sở hữu
của một chủ giảm từ 6.8.10.3.6 xuống còn 6.7.4.8.8.
Lớp sở hữu từ
10 đến 20 mẫu cũng giảm xuống 4,55% số chủ và giảm 6,24% về diện tích ruộng
đất. Bình quân sở hữu từ 12.9.6.8.6 xuống còn 12.5.13.3.0.
Lớp sở hữu từ
10 đến 40 mẫu giảm 0,66% số chủ và 1,8% diện tích, bình quân sở hữu giảm từ
25.8.3.7.4 xuống còn 24.1.10.1.0.
Lớp sở hữu từ
40 đến 70 mẫu tăng 0,08% số chủ và 0,37% về diện tích. Bình quân sở hữu giảm từ
57.0.10.1.0 xuống còn 41.7.6.7.0.
Lớp chủ sở hữu
70 đến 100 mẫu ở thời điểm 1805 không có, nhưng ở thời điểm 1840 chiến 0,23% số
chủ với 3,42% diện tích.
Hiện tượng phụ
nữu đứng tên chủ sở hữu xuất hiện trong cả hai địa bạ của Quảng Hòa. Đối với
các chủ sở hữu là nữ, từ địa bạ Gia Long 4 đến địa bạ Minh Mệnh 21 xét về số
người có giảm đi (88-40 = 48 người ), song nếu nhìn trên tỏ lệ so với tổng số
chủ sở hữu từng thời điểm tương ứng thì không những không tăng mà còn bị giảm
đi ½ số chủ (Gia Long 4 (1805) 88 chủ = 12,97%, năm Minh Mệnh 21 (1840) 40 chủ
= 4,31% ). Song, điều đáng nói ở đây là diện tích ruộng đất sở hữu của họ cũng
bị suy giảm từ 244.2.3.4.0 xuống chỉ còn 109.5.11.5.0. Sự suy giảm này không
chỉ nằm trong sự suy giảm của xã hội vì bộ phận tư điền lưu hoang đưa vào sản
xuất và một số ruộng đất mới khai phá được chuyển thành ruộng đất công. Chính
vì những lý do trên sở hữu trung bình của các chủ phụ nữu trong cả hai địa bạ
Gia Long 4: 2.7.11.2.8, Minh Mệnh 21: 2.7.5.1.9 không có sự chênh lệch lớn,
nhưng so với trung bình ruộng đất của toàn huyện thì sở hữu bình quân của các
chủ nữ thấp hơn hẳn.
Từ địa bạ Gia
Long (1805) sang địa bạ Minh Mệnh (1840), mặc dù tổng số chủ tư hữu ruộng đất
nói chung tăng 208 người, song điều đặt biệt là riêng các chủ phụ canh thì giảm
đi (147-59 = 88 người), cho nên tỷ lê chủ phụ canh thì trong toàn huyện giảm đi
đáng kể (từ 21,68% xuống còn 6,66%). Một mặt, số lượng cũng như tỷ lệ phụ canh/
tổng số chủ sở hữu là giảm đi, mặc khác, tỷ lệ diện tích ruộng đất họ sở hữu
trong tương quan với toàn huyện có sự thay đổi (9,05% xuống còn 3,46%) nhưng
mức sở hữu bình quân của các chủ phụ canh thì có sự gia tăng về diện tích (Gia
Long 2.8.3.0.1, Minh Mệnh 3.0.4.3.2). Hình thức “phụ canh” được phản ánh trong
cả hai địa bạ của Quảng Hòa không phải là hiện tượng đặc biệt riêng của địa
phương này, mà trái lại đây là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ
XIX. Trên thực tế người ta có thể mua ruộng đất ở các bản, xã khác và ngược
lại, bán ruộng đất cho người nơi khác. Xem xét cụ thể quê quán của các chủ phụ
canh ở Quảng Hòa trong cả hai địa bạ chúng tôi thấy họ phần lớn đều thuộc các
xã trong huyện và một số thuộc huyện Thạch Lâm, huyện Thượng Lang và huyện Hạ
Lang.
Sự khác nhau
giữa hai địa bạ Gia Long thứ 4 và Minh Mệnh 21 là ở chỗ: nếu địa bạ Gia Long 4
(1805) không chia tư thổ cho các chủ sở hữu, toàn bộ diện tích tư thổ đều do
bản xã đồng cư, sang địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ở Quảng Hòa xuất hiện hình thức
chia tư thổ cho các chủ sở hữu. Với diện tích 88.3.9.4 tư thổ được chia cho 22
chủ, trong đó 16 chủ đã có tư điền nhưng vẫn được chia thêm thổ và 6 chủ sở hữu
tư thổ (không có tư điền).
3. Chất lượng ruộng đất
Địa bạ Quảng
Hòa không chỉ phân biệt từng loại ruộng đất là công hay tư, điền hay thổ mà còn
ghi rất rõ từng loại ruộng này chất lượng ra sao. Về đất, chúng tôi không thấy
phân biệt nhưng điền thì có ghi rất cụ thể. Tương tự như địa bạ Gia Long
4(1805), địa bạ Minh Mệnh cũng ghi rất rõ.
Công điền: với
tổng diện tích 126.1.5.5.5 và công điền của Quảng Hòa chia thành các loại ruộng
sau:
Loại 2:
36.1.0.0.0
Loại 3:
90.0.5.5.5
Tư điền; Sau
khi chiết cấp một số bộ phận tư điền lưu hoang 126.1.5.5.0 làm công điền năm
1840 số tư điền còn lại của Quảng Hòa là 5142.5.9.7.7 được phân bố theo các
loại sau:
Loại 2: 1480.8.5.2.5
Loại 3:
3661.7.4.5.2
Ruộng đất
Quảng Hòa thuộc loại 2 và 3 chủ yếu là ruộng vụ thu.
4. Quy mô sở hữu của các dòng họ
Trong địabạ
Quảng Hòa, từ những số liệu riêng lẻ về sở hữu ruộng đất tư của từng chủ sở
hữu, chúng tôi lập bảng số chủ và mức độ sở hữu của các dòng họ qua hai thời
điểm lịch sử (1805, 1840) để thấy được sự tăng giảm số lượng chủ sở hữu và mức
độ sở hữu ruộng đất của họ. Tuy nhiên, thống kê này vẫn mang tính tương đối vì
tạm thời theo quy ước chỉ dựa vào danh sở hữu chủ sở hữu ruộng đất và tên đầu
của họ.
Từ bảng so
sánh, chúng tôi tháy được sự thay đổi số lượng chủ sở hữu củng như diện tích
ruộng đất sở hữu tương ứng của các dòng họ ở hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và
Minh Mệnh 21 (1840).
Xét về số chủ
và số họ thì đều có chiều hướng gia tăng từ năm 1805 đến năm 1840, thêm 208 chủ
sở hữu và thêm 2 họ, song nếu tính một cách tỷ mỉ thì số lượng chủ tăng nhanh
hơn so với số họ, hay nói cách khác,
bình quân số chủ trong các họ năm Gia Long (678:37 = 18 người) nhỏ hơn so với
Minh Mệnh 21 (886:39 = 22 ngươi).
So với năm
1805, đến 1840 ở Quảng Hòa xuất hiện thêm 8 họ mới là họ Cù, Gia, Mạc, Tần, Tạ,
Trình, Đặng…nhưng lại mất đi họ Lưu Nhâm, Thạch, Trần, Tăng, Thương… Trên thực
tế các dòng họ Bế, Đàm, Đinh, Hà, Hoàng, Nông, Nguyễn chiếm tới 74, 50% tổng số
chủ và 72,50% tổng diện tích ruộng đất Quảng Hòa trong cả hai thời điểm lịch sử
(1805 – 1840).
Trong 39 dòng
họ của Quảng Hòa, nếu xét về mức độ tư hữu, tức là tỷ lệ giữa diện tích sở hữu
trên tổng số chủ sở hữu thì họ Chu cao nhất (12.4.9.9), rồi đến họ Lương
(11.3.13.2), còn họ có sở hữu trung bình nhỏ nhất là họ Trần (0.2). Vậy tỷ lệ
giữa mức sở hữu trung bình của họ lớn nhất và họ nhất kém nhau tới
(12.4.9.9:0.2.0.0 = 23 lần), quả là một con số không nhỏ.
Nếu xét về sở
hữu của các thành phần dân tộc ở Quảng Hòa, bảy dòng họ như kể trên (Bế, Định,
Hà, Hoàng, Nông, Nguyễn) chiếm 72,50% tổng diện tích ruộng đất của cả huyện
thuộc dân tộc Tày.
5. Tình hình sở hữu ruộng đất của các chức
dịch
Trên cơ sở tư
liệu địa bạ hai thời điểm lịch sử (1805-1840) chúng tôi thống kê tài sản ruộng
đất của các chức dịch, cho thấy: hệ thống chức dịch trong các xã thôn Quảng Hòa
năm Minh Mệnh 21 (2840) cao hơn so với năm Gia Long 4 (1805).
Số lượng chức
dịch có tăng lên chút ít so với năm 1805 nhưng mức độ sở hữu của các chức dịch
trong cả hai thời diểm lịch sử, chưa có chức dịch nào có sở hữu trên 40 mẫu.
Nếu
xét kỹ về mức độ sở hữu giữa các lớp sở hữu có sự thay đổi:
Lớp
sở hữu từ 10 đến 20 mẫu, năm 1805 chiếm
44,16% đến năm 1840 chỉ còn 26,19%; lớp sở hữu từ 1 đến 5 mẫu và từ 5
đến 10 mẫu có sự gia tăng từ 9,09% lên 23,81% và từ 33,76% lên 38,10%. Sở hữu
bình quân của các chức dịch năm Minh Mệnh 21 (1840) thấp hơn (5.3.13.3.8) mức
sở hữu trung bình của các chức dịch năm Gia Long thứ 4 (1805: 9.6.10.9.7). tuy
nhiên, phần lớn các chức dịch, hương mục ở trong lớp người khá giả có sở hữu từ
5 trở lên (60% cai tổng, 73,08% lý trưởng, hương mục 74,98%, tả bạ 57,14%) tỷ
số chung của 4 loại là 69,05%.
Số
chủ trên 10 mẫu cũng có mặt trong hàng ngũ chứcdich5 30,95% (cai tổng 20%, lý
trưởng 34,27%, hương mục 34,35%, tả bạ 23,81%).
Số
chức dịch không có ruộng đất rất ít 5/84 người (chiếm 24,14%) 1 cai tổng, 1 lý
trưởng và 3 tả bạ. Số chức dịch dưới 5 mẫu chiếm 25%.
Qua
phân tích địa bạ hai thời điểm lịch sử 1805, 1840 tác giả rút ra một số nhận
xét sau:
Thứ nhất, về quy mô sở hữu ruộng đất của
các xã thôn Quảng Hòa trong cả hai thời điểm rất thấp, xã có quy mô sở hữu
ruộng đất cao nhất là 564 mẫu, xã thấp nhất chỉ có 32 mẫu, 74,36% số xã có sở
hữu 300 mẫu, còn lại 25,64% số xã có sở hữu từ 300 mẫu trở lên. Nếu so sánh với
huyện Thụy An (Thái Bình) cùng thời điểm, ở đây xã thấp nhất có quy mô sở hữu
187 mẫu, xã có quy mô sở hữu cao nhất có tới 1563 mẫu[3].
Như
vậy quy mô sở hữu của Quảng Hòa nhỏ hơn rất nhiều lần so với xã vùng Đồng bằng.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng trên có thể do điều kiện địa hình miền
núi đồi, núi nhiều, bồn địa hẹp, nên đồng ruộng chỉ tập trung ở những thung
lũng chân núi mang tính chất là ruộng bậc thang và có khả năng giải quyết nguồn
nước tưới tắm cho cây trồng. Đây là đặc điểm riêng biệt của các xã vùng núi
biên giới phía Bắc.
Thứ hai: về tình hình sở hữu ruộng đất
của dòng họ và thành phần dân tộc của các chức dịch Quảng Hòa, ta thấy tình
hình sở hữu không đồng đều giữa các dòng họ, phần lớn ruộng đất tập trung trong
bảy dòng họ (Bế, Đàm, Đinh, Hà, Hoàng, Nông, Nguyễn) chiếm 75,79% tổng số chủ,
74,58% diện tích ruộng đất của cả hai huyện trong hai thời diểm lịch sử (1805 –
1840).
Nếu
như ở đồng bằng Bắc Bộ “trong từng làng một có thể có những họ to và những họ
bé, những họ mạnh và những họ yếu, những “họ đàn anh” và những “họ đàn em”. Tổ
chức họ cũng có vai trò trong lịch sử xây dựng làng mới để mở rộng diện tích
canh tác. Mặc dù vậy tổ chức họ không phải là một viện trợ vật chất mà là chỗ
dựa tinh thần và đôi khi còn là chính trị nữa…[4]. Ở
vùng miền núi Quảng Hòa yếu tố dòng họ được thể hiện rất rõ trong bộ máy chức
dịch nửa đầu thế kỷ XIX. Chỉ tình riêng các chức: sắc mục, thôn trưởng, xã
trưởng, tổng trưởng, khán thủ thời Gia Long (1805) và các chức: lý trưởng,
hương mục, tả bạ, cai tổng thời Minh Mệnh (1840), trong đó có 4 dòng họ có thế lựcchi1nh
trị lớn nhất như: Họ Đàm chiếm tới 18,18%, họ Bế chiếm 11,82%, họ Hoàng chiếm
10,91%, họ Nông chiếm 11,82% tổng số chức dịch của châu trong thời Gia Long.
Khi
nghiên cứu nguồn gốc thành phần dân tộc của các chức dịch trên cho thấy: Họ
Nông (Nùng), Hoàng là thổ tù bản địa, còn các họ: Bế, Đinh, Đàm, Hà , Nguyễn là
con cháu các phụ đạo, phiên thần triều Lê [5] và
một số là lưu quan của nhà Nguyễn…
Như
vậy, cho đến nửa đầu thế kỷ XIX khi Gia Long thống nhất đất nước (1802) Minh
Mệnh thực hiện cải cách hành chính trên phạm vi toàn quốc…nhưng đối với vùng
dân tộc thiểu số miền núi (Quảng Hòa) biên giới phía bắc yếu tố dòng họ có gốc
gác dòng họ thổ tù trên một chừng mực nhất định, vẫn chi phối nắm giữ những
chức vụ quan trọng trong bộ máy thống trị ở các làng xã.
Thứ ba, Theo dịa bạ (1805, 1840) cũng có
một vài chức dịch không có ruộng đất, hiện tượng trên có thể giải thích bằng
việc: những người này khi họ đảm nhận chức vụ nhưng vẫn chưa trở thành người
chủ sở hữu của gia đình vì chưa tách riêng ra khỏi cộng đồng chung của bố mẹ.
Vì theo phong tục riêng của người Tày Nùng ở địa phương khi con trai đã kết hôn
thì bố mẹ phân chia tài sản ruộng đất cho ra ở riêng nhưng vẫn chưa tách phần
sở hữu được chia ra khỏi địa bạ ruộng đất chung của gia đình. Hoặc có thể do
đây là những trường hợp đi ở rể.
Thứ tư: Qua tư liệu địa bạ chứng tỏ chế
độ tư hữu ruộng đất đã chiếm xu thế, chi phối hoàn toàn tình hình ruộng đất ở
Quảng Hòa từ nửa đầu thế kỷ XIX.
ß
Khoa Lịch Sử - Đại học Sư Phạm Thái Nguyên
[1] Đại Nam nhất thống chí, tập IV, NXB
Thuận Hóa, Huế 1992, tr.404
[2] Số liệu
về ruộng đất huyện Quảng Hòa nữa đầu thế kỷ XIX được khai thức từ nguồn tư liệu
đại bạ đang lưu tại Trung Tâm lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội.
[3] Nguyễn ĐứcNghinh – Bùi Thị Minh Hiền: tư liệu ruộng đất vùng Thụy Anh – Thái
Bình (cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX). Tạp
chí nghiên cứu lịch sử số 991.
[4] Trần Từ: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở bắc Bộ. NXB KHXH, Hà Nội,
1984, tr.43.
[5] Bế Huỳnh: Cao bằng tạp chí nhật tập. Tư liệu Viện Dân Tộc học, ký hiệu D. 36,
tr.2.
No comments:
Post a Comment