Danh
thần thời Lê, người làng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Đông (Hà Nội), sinh
ngày 28.8.1774, tự là Huy Chương (sau đổi là Ảm Chương) hiệu là Tồn Am và Tồn
Ông. Ông vốn dòng dõi khoa bảng. Tổ tiên ông mấy đời đều là các bật danh thần đời
Hậu Lê như Bùi Xương Trạch, Bùi Bỉnh Uyên... nhưng thân phụ ông là Bùi Dụng
Tân, hiệu là Trúc Viên Cư Sĩ, không ra làm quan chỉ ở nhà dạy học.
Thuở
nhỏ, Bích thường đau ốm luôn, vóc dáng lại gầy còm nhưng một thầy tướng xem tướng
mạo cho Huy Bích, lại khen rằng “Cậu bé này mắt sáng và dài, mày cong như vành
trăng mà ấn đường (khoảng giữa hai lông mày lại rộng, dái tai dài, dám chắc chỉ
ngoài hai mươi là phát quý, dù nay có lắm bệnh tật cũng chẳng can chi”. Đến khi
17 tuổi, Bích đến thụ giáo ông nghè Nguyễn Bá Trữ và tỏ ra thông minh, sắc sảo
hơn người khiến thầy và bạn đều nể phục. Năm 19 tuổi (1762), Huy Bích dự thi
Hương và đỗ ngay Hương cống, nhưng lại trượt kỳ thi Hội ở năm sau. Ông bèn theo
học với Bãng nhãn Lê Quý Đôn. Vì chán cảnh triều thần bất ổn, ông không thiết đến
việc tiếp tục con đường sĩ tiến. Mãi đến năm 1770 ông mới nộp quyển dự thi và đỗ
thi Hội, rồi đỗ thi Đình (Hoằng giáp), được bổ chức Hàn lâm viện Hiệu lý, sau
thăng chức Thị chế (1771). Từ năm 1777 đến 1780 ông lĩnh chức Đốc đồng Nghệ An
rồi thăng Hiệp trấn Nghệ An, kiêm chức Tham chính. Trong những năm này, ông đã
khéo dùng uy thế để làm yên ổn vùng Thuận Hóa, và chiêu dụ thổ dân miền Trấn
Ninh, vùng thượng du Nghệ An. Khi trở về Vĩnh Doanh (Vinh), ông hợp lực với
quan Trấn Thủ Nghệ An là Vũ Tá Côn tra xét lại một số dân đinh ẩn lậu, đặt ra
tuần ty để đánh thuế muối. Ông rất sáng suốt và bao dung khi xét xử các việc lớn
nhỏ nên rất được mọi người cảm mến, nể phục.
Những
năm 1781-1785, ông được vời về triều, bổ chức Nhập thị Bồi tụng, dù được ưu ái,
nhưng nhìn thấy cảnh triều chính đảo điên, Tĩnh đô vương Trịnh Sâm quá say mê
Tuyên phi Đặng Thị Huệ, bỏ trưởng lập thứ, phần loạn kiêu binh của quân Tam phủ,
Bùi Huy Bích nhiều lần viết điều trần cho Trịnh Sâm hầu kịp thời sửa chữa việc
cai trị, nhưng chưa được xét thì Trịnh Sâm mất. Khoảng cuối năm 1785, đầu 1786
ông cáo bệnh về nhàn dưỡng tại Bích Câu (Hà Nội), lúc này ông mới ngoài 40 tuổi.
Tuy
ông không còn dự việc triều chính nữa, nhưng chúa Trịnh vẫn thường sai người
thăm hỏi sức khỏe và bàn luận với ông những việc quốc sự. Năm 1786, khi quân
Tây Sơn tiến ra Bắc, Huy Bích lại được triệu là Giám quân kiêm Đốc chiến, cùng
với Hoàng Phùng Cơ cầm quân chống cự. Nhưng bị thua trận, ông phải lẩn tránh về
quê. Vua Lê Chiêu Thống đã nhiều lần vời ông ra tham chính, sắc ban làm Bình
Chương Sự kiêm Nhập thị Kinh diên, Nhập thị Tham tụng Chính nghị Đại phu. Nhưng
ông luôn tìm cách từ chối, nằm dưỡng bệnh ở nhà. Năm 1788, Nguyễn Huệ lênh ngôi
vua, cho vời các cựu thần nhà Lê ra giúp nước, ông giả ốm rồi lẩn tránh về ở tại
Thạch Thất, Sơn Tây gần sáu năm mới chuyển về ở tại xã An Lâu, huyện Thanh Miện
(Hải Dương). Đến đời vua Gia Long (1802), ông lại được triệu ra, phục hồi các
phẩm trật cũ và hết sức trọng đãi, nhưng ông chỉ xin được sống an nhà nơi cố
hương.
Thơ
văn ông còn để lại cho đời sau rất nhiều như: Bích Câu thi tập (tiền, hậu); Nghệ
An thi tập (thượng, hạ); Thoái hiên
thi tập (3 cuốn); Nghệ An Chí; Hoàng
Việt thi tuyển (hay Lịch đại thi sao); Hoàng
Việt văn tuyển, bộ “Tứ thư giản ước”;
“Lữ trung tạp thuyết”...
Ông
mất ngày 25 tháng 5 năm 1818, thọ 75 tuổi.
Th.
N.
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa Thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment