Nhà
thơ, làm quan triều Nguyễn, tên là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghị Chi, quê ở thôn
Long Tuyền, phủ Vĩnh Định, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc Cần Thơ, Hậu Giang). Bùi
Hữu Nghĩa sinh trưởng trong một gia đình ngư dân, nhờ có người đỡ đầu nên ông
được theo học cụ Đỗ Hoành, một nhà nho nổi tiếng hay chữ ở Biên Hòa. Năm Minh Mạng
thứ 16 (1835), Bùi Hữu Nghĩa đậu Giải nguyên trong kỳ thi Hương ở Gia Định, vì
thế được gọi là Thủ khoa Nghĩa, được bổ làm Tri phủ ở Phúc Long, sau đó bị
giáng xuống làm Tri huyện Trà Vinh, tỉnh Vĩnh Long. Do tính tình thanh liêm
cương trực, Bùi Hữu Nghĩa không được lòng quan trên vốn ưa hà lạm. Có một lần
do bênh vực nông dân và ngư dân về vấn đề miễn thuế ở rạch Láng Thé (vốn rạch
này bị bọn quan trên thu thuế trong khi trước kia vua Gia Long có ban chiếu miễn
thuế thủy lợi ở rạch này), Bùi Hữu Nghĩa bị vu là “xui dân nổi loạn” nên bị
giam và kết án tử hình. Vợ của Bùi Hữu Nghĩa lặn lội ra triều đình Huế đánh trống
kêu oan cho chồng nên Bùi Hữu Nghĩa được tha tội chết, song bị giáng chức xuống
làm Thủ ngữ, coi đồn Vĩnh Thông ở Châu Đốc. Sau ông chán cảnh nhiễu nhương, loạn
lạc nên lui về dạy học và tham gia phong trào Văn Thân chống Pháp từu năm 1868.
Bùi
Hữu Nghĩa từng nổi tiếng là một trong những người làm thơ hay nhất Lục tỉnh Nam
Kỳ. Dân gian có câu:
“Đông Nai có bốn rồng vàng
Lộc hoa, Lễ Phú, Sang đàn, Nghĩa
thi”.
Bùi
Hữu Nghĩa có nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm và chữ Hán như:
Kim Thạch kỳ duyên (tuồng tiếng Nôm), Quan
Công thất phú hạ bì, Hạ âm mô cảnh, Văn tế vợ, Thơ khóc vợ, Tây du, Mậu tùng...
Thơ của Bùi Hữu Nghĩa nói lên lòng yêu nước của kẻ sĩ và nỗi niềm đau xót
trước vận mệnh của đất nước.
Y.T
No comments:
Post a Comment