Người
sáng lập ra nước Âu Lạc. Ông vốn là người thủ lãnh của người Tây Âu cư trú trên
địa bàn phía Bắc nước Văn Lang. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhà Tần
đem quân xâm lược các nước ở phương Nam. Người Tây Âu và Lạc Việt đứng lên chiến
đấu chống lại quân xâm lược Tần. Cuộc liên minh kháng chiến đó đã đem lại thắng
lợi vẻ vang và cũng tạo điều kiện cho sự hợp nhất giữa hai tộc người Lạc Việt
và Tây Âu. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi
cho Thục Phán, Ông hợp nhất hai vùng đất Tây Âu và Văn Lang lập nên nước Âu Lạc,
đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và lấy hiệu là An Dương Vương. An Dương
Vương cho xây thành Cổ Loa rất kiên cố với ba lớp tường thành và hào sâu. Trong
thành, ông sai Cao Lỗ[1] lập
xưởng đúc mũi tên đồng, chế tạo loại nỏ bắn một lần được nhiều mũi tên gọi là nỏ
liên châu (gần đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy cạnh thành Cổ Loa một kho chứa
hàng vạn mũi tên đồng). Tương truyền, khi xây thành Cổ Loa, yêu quái quấy phá
nên đắp mãi không được. Sau nhờ thần Kim Qui hiện lên giúp trừ yêu quái, thành
mới xây xong. Thần còn cho An Dương Vương một cái móng để chế tạo chiếc nỏ thần
giữ nước.
Nhiều
lần quan úy quân Nam Hải là Triệu Đà đem quân xâm lược Âu Lạc nhưng bị đánh bại.
Triệu Đà dùng mưu đưa con là Trọng Thủy sang làm con tin, cưới con gái của An
Dương Vương là Mị Châu và tìm cách chia rẽ triều đình Âu Lạc hầu làm giảm sức
chiến đấu của dân Âu Lạc. An Dương Vương quá tin vào thành cao, hào sâu, nỏ mạnh
mất cảnh giác với quân thù. Khoảng năm 179 trước Công Nguyên, Triệu Đà kéo quân
sang đánh Âu Lạc. Thành Cổ Loa bị vỡ. An Dương Vương cùng con là Mĩ Châu chạy về
phía Nam. Quân Triệu Đà truy đuổi rất gấp. Đến núi Mộ Dạ (Nghệ An). An Dương
Vương chém Mị Châu rồi nhảy xuống biển tự tử. Ngày nay ở Cổ Loa và ở Nghệ An đều
có đền thờ ông. Ngày 6 tháng 1 (âm lịch) là ngày hội lớn ở đền thờ An Dương Vương
tại Cổ Loa. Trong dân gian có câu:
Chết
thì bỏ con bỏ cháu
Sống
thì không bỏ mồng sau tháng Giếng.
L.V.N
Trích "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam". Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB). NXB Thông Tấn. NXB 1993
[1] Dấu Hoa thị
* đặt ở góc phải một nhân vật nào là để lưu ý người đọc sự có mặt của nhân vật ấy
trong tác phầm này.
No comments:
Post a Comment