Nữ
sĩ đời nhà Nguyễn, thế kỷ 19. Tương truyền bà tên Nguyễn Thị Hinh, không có tài
liệ nào ghi tên thật, năm mất của bà. Quê ở làng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện
Thọ Xương (nay là Hoàng Long, ngoại thành Hà Nội). Bà là ái nữ của ông Nguyễn
Lý, một danh nho đỗ thủ khoa đời nhà Lê (1783), từng làm Đốc học Sơn Tây và Hải
Dương. Chồng của bà là Lưu Nghị, đỗ Tú tài năm 1825, đỗ Cử nhân năm 1828, làm
tri huyện Thanh Quan (Thái Ninh, Thái Bình), do đó bà được gọi là Bà Huyện
Thanh Quan.
Bà
Huyện Thanh Quan nổi tiếng là người phụ nữ giỏi về văn thơ chữ Nôm. Làm thơ được
bà bà xem là thú tiêu khiển tao nhã nhất. Theo giai thoại, một lần ông Huyện đi
vắng, có một người phụ nữ trẻ tên Nguyễn Thị Đào đến cửa quan huyện trình bày
hoàn cảnh khổ đau của mình vì bị chồng ruồng rẫy, bội bạc. Thấy lời lẽ tờ đơn cảm
động và xót thương thân phận người đàn bà ấy, Bà Huyện Thanh Quan liền cầm bút
tự ý phê vào lá đơn cho phép người ấy được ly dị chồng:
“Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: Xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút, kẻo mai nữa già”.
Vì
việc làm tùy tiện này, ông Huyện chồng bà bị quan trên khiển trách, giáng chức.
Nhưng về sau, chồng bà lại được thăng chức Bát phẩm thơ lại thuộc bộ Hình. Nhờ
có tài văn thơ, Bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức biết tiếng, vời vào cung
phong chức Cung trung giáo tập, dạy học cho các công chúa và cung phi. Vua thường
ban thơ cho bà họa lại, bà họa rất tài tình nên được vua quý trọng. Có lần vua
Tự Đức cho bà được tự tay đề thơ vào một cái bát cổ quý vẽ cảnh sơn thuye, thơ
đó như sau:
“In như thảo mộc trời Nam lại
Đem cả sơn hà đất Bắc sang”
Tác
phẩm của Bà Huyện Thanh Quan gồm một số bài thơ Nôm nổi tiếng như: Qua đèo Ngang, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn
Bắc, Cảnh thu, Nhớ nhà, Cảnh chiều hôm v.v... Nội dung thơ của bà bộc lộ rõ
nỗi hoài niệm nhà Lê, ngụ ý tiếc thương quá khứ, do đó Bà Huyện Thanh Quan được
xếp vào hàng những thi sĩ có khuynh hướng tình cảm, mang tính cách hoài cổ.
Y.T
Theo "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa Thông tin, NXB 1993
No comments:
Post a Comment