Người
có óc trào phúng và châm biếm lừng danh ở Hà Thành cuối thế kỷ 19, sinh và mất
năm nào không rõ, chỉ biết ông sống vào khoảng đời Thiệu Trị (1841-1847) và Tự
Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (Hà Nội). Ông là con thứ
ba nên được gọi là Ba Giai. Người ta kể rằng ông có dáng thư sinh, mặt mũi trắng
trẻo, cặp mắc sắc và nụ cười hóm hỉnh. Mặc dù thông minh học giỏi nhưng ông không
thiết tha với việc học hành khoa cử mà sống cuộc đời phóng khoáng với những trò
trêu cợt ngạo đời nổi tiếng ở đất Hà Nội.
Ông
kết bạn với Tú Xuất thành một cặp bài trùng, đi đâu cũng có nhau để chọc ghẹo
người đời. Giai thoại về Ba Giai và Tú Xuất có nhiều, đại loại mấy câu chuyện
sau:
Ờ
Hà Nội có một nhà giàu ở phố hàng Bè là bá hộ Tiếp, giàu nhưng rất keo kiệt, chỉ
ăn cơm với tép nên người ta gọi là bá hộ Tép, có một con gái tính rất đanh đá,
chua ngoa. Một hôm Ba Giai đi qua lúc cô này đang treo mành mành, do vô ý ông
chạm vào làm rơi mành xuống. Cô gái nọ giở giọng chua ngoa chửi bới. Ba Giai bực
lắm nhưng không nói gì. Đến chiều ba mươi Tết ông ra phố Lò Sũ đặt một áo quan
và nói với nhà hàng rằng: “Nhà tôi có một bà bác mất sáng nay, sợ để đến mai
thì không tiện vì là mồng một Tế nên nhờ ông chiều nay cho khiêng đến nhà ông
Bá Tiếp ở Hàng Bè để trước giao thừa đưa cụ tôi ra đồng”. Theo lời dặn, chiều
hôm đó nhà hàng khiêng áo quan đến nhà Bá Tiếp làm cả nhà kinh hoảng. Sau đó ở
Hà Nội có câu ca dao:
“Hễ
ai mà nói dối ai,
Thì
ba mươi Tết Ba Giai vào nhà”.
Đối
tượng chính của Ba Giai trêu cợt là đám tham quan ô lại. Một lần ông bảo Tú Xuất
vào mượn Tuần phủ Hà Nội võng lọng, nói rằng để về quê làm ma khô cho bố. Vì là
học trò của quan Đốc học, thân phụ của Tú Xuất khi xưa, viên Tuần phủ bằng lòng
cho mượn. Tú Xuất giả làm quan Khâm sai, từ kinh ra kinh lược cá phủ huyện
quanh Hà Nội, có Ba Giai giả làm viên Đề lại cắp tráp theo hầu. Đi đến đâu bọn
quan lại, tổng lý, vốn là những kẻ tham nhung, đều sợ chếp khiếp. Sau viên Tuần
phủ biết chuyện nhưng phải im đi vì sợ mang họa vào thân.
Người
ta biết đến Ba Giai không chỉ ở những bài thơ châm biếm và ngạo đời, ông còn là
tác giả của tác phẩm “Hà Thành chính khí
ca”. Đây là một bài ca dài 140 câu, làm sau khi thành Hà Nội thất thủ
(1882) trong đó có biểu dương gương hy sinh oanh liệt của Hoàng Diệu*:
“... Chữ trung còn chút con con
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao, bể rộng, đất dày
Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi”.
và
lên án đám quan lại hèn nhát, trốn tránh nhiệm vụ hoặc đầu hàng quân Pháp:
“... Đã quốc tộc, lại vương thần
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà
Nỡ nào bán rẻ một toàn Thăng Long”.
Ba
Giai mất năm nào không rõ. Người ta cho rằng có thể Ba Giai bị “kẻ thù” ám hại
vì những trò ngạo đời hay vì bài ca yêu nước mà ông đã viết.
V.H.L.
Trích "Những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam", Tôn Nữ Quỳnh Trân (CB), NXB Văn hóa thông tin, NXB:1993
No comments:
Post a Comment