iền tệ là một phương tiện lưu thông kinh tế, là công cụ để thực hiện
các biện pháp tài chính. Mọi quan hệ tài chính đều được biểu thị thông qua tiền
tệ. Vì vậy, tiền tệ luôn phản ánh sự cân bằng
của nền tài chính quốc gia. Dưới thời thuộc Pháp, tiền tệ và sự bất ổn định
của tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn đến các chính sách bóc lột kinh tế và việc đầu
tư vốn của tư bản thực dân Pháp ở Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam.
*
Trong những đặc trưng nổi bật của
hệ thống tiền tệ ở Việt Nam thời thuộc Pháp là có hai hệ thống tiền tệ, dựa
trên hai hệ giá trị khác nhau cùng tồn tại.
Trong khi đồng tiền Việt Nam truyền thống vẫn được duy trì, sử dụng đến
năm 1945 nhưng ngày càng mất giá vì đóng vai
trò thứ yếu, thì đồng tiền phương Tây (mà đặc biệt sau đó là đồng Franc
của Pháp) ngày càng trở thành đồng tiền chính thức, giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động lưu thông kinh tế và
thực hiện chức năng tài chính.
Trước khi thực dân Pháp vào Việt Nam, đồng tiền
phương Tây theo gót các nhà buôn và các giáo sĩ đã được lưu hành từ lâu ở Việt
Nam. Vào thời Gia Long, ngoài vàng nén, bạc nén và bạc
con rồng do vua Gia Lon đúc, nặng 27g3, thành sắc 0,635, những đồng bạc Hoa
Viên (đồng Rean Tây Ban Nha), đồng Quy đầu
(đồng đô la thương mại Mỹ), đồng Song chúc (đồng bạc Mêhicô) và đồng tiền Anh
(đồng bảng) là những đồng tiền phương Tây lưu hành khá rộng rãi ở nước ta. Năm
1838, nhà nước phong kiến quy định: các đồng
tiền lớn của những loại đồng tiền này ngang giá 7 đồng cân 2 phân bạc,
các loại tiền nhỏ ngang giá với 2 đồng cân 3 phân bạc (1). Từ năm 1864, cùng với
việc xâm chiếm Nam Kỳ, quân đội viễn chinh Pháp đem theo đồng 5 Franc Pháp (viết tắt là F) và các đồng
xu (centime 1/100F) vào lưu hành, với tỷ giá chuyển đổi là 5,3F ăn một đồng bạc
Mêhicô (2). Sau đó theo thỏa thuận giữa triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp, đồng Franc được quy đổi theo tỷ giá: bạc
thỏi kg ăn 200F; vàng thỏi 1kg ăn 3.127F. Kết quả là cùng với các loại tiền Việt
Nam, Trung Quốc và các loại tiền phương Tây trước đó, đồng Franc Pháp đã bổ
sung thêm vào tình trạng “đã có cả một mớ hổ lốn thật sự về tiền tệ, về kim loại,
về trọng lượng và tỷ lệ kim loại khác nhau được sử dụng cùng một lúc”. Tình trạng hổ lốn này kéo dài đến
cuối thế kỷ XIX. Có thể nói cho mãi đến năm 1897, chính quyền thuộc địa chỉ tập trung vào việc xâm lược, bình đình và chiếm đóng, và hầu như không hề quan tâm đến
việc tìm cho Đông Dương một đồng tiền ổn định, chắc chắn. “Chính quyền chỉ lo bảo
đảm ngân sách Nam Kỳ, chống lại những tổn thất do việc chi tiêu bằng đồng
Franc, trong khi các khoản thu lại bằng đồng bạc” (3). Tuy vật, những biến động
của tỷ giá đồng bạc so với đồng tiền kẽm hay tiền đồng trên thị trường nội địa
vẫn có một sự ổn định trong tỷ giá hối đoái giữa Đông Dương và nước Ngoài.
Đến năm 1902, cuộc khủng hoảng giá
bạc trên thế giới đã ảnh hưởng sâu sắc đến tiền tệ Đông Dương. Vào lúc này giá
1kg bạc đã giảm xuống bằng 85F, giá 1 đồng bạc giảm xuống 2F. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho việc buôn
bán và xuất nhập khẩu, cùng với việc đầu tư
vốn vào Đông Dương hoàn toàn bị ngưng
lại. Để cố gắng làm cho đồng tiền Đông Dương dần dần không bị lệ thuộc
vào giá bạc kim loại, chính quyền thuộc địa
đã chủ trương thu hẹp sự lưu thông của đồng bạc Mêhicô trên thị trường
Đông Dương. Giải pháp này đã được Ngân hàng Đông Dương cho thi hành một cách
triệt để: “Với việc này, kim loại bạc đơn ở Đông Dương trở nên khập khiễng giống như kim loại kép ở Pháp trước
đây. Những đồng bạc Mễ Tây Cơ chi ra thì được, nhưng nhập vào thì cấm, như vậy
chúng phải biến mất dần trong việc lưu thông. Việc chi ra đồng bạc Pháp được tự
do, nhưng việc đúc đồng bạc Pháp được quy định
chặt chẽ, cần phải được chính phủ Pháp cho phép” (4).
Để khắc
phục tình trạng không ổn định của tài chính
Đông Dương, năm 1875, thực dân Pháp đã
thành lập Ngân hàng Đông Dương. Ngày 8-3-1878, Ngân hàng này đã phát
hành đồng bạc Đông Dương (Piastre viết tắt là $), nặng 27 gam, thành sắc 0,900, và thu dần
các đồng tiền khác không cho lưu hành nữa (trừ tiền đồng và tiền kẽm). Cũng từ
đây đồng bạc Đông Dương ngày càng chiếm lĩnh trong lưu thông.
Từ năn 1905 đến năm 1929, việc vận
hành của ngân bản vị gây ra một sự lộn xộn sâu sắc về tiền tệ. Giá bạc bị sút
ngày càng mạnh trong khi các nước trong khu
vực đều dùng kim bản vị. Chính quyền thuộc địa đã tìm mọi biện pháp nhằm
làm ổn định đồng bạc so với vàng. Trước tiên, để ổn định sức mua và tỷ giá của
đồng bạc, Toàn quyền Đông Dương đã quyết định
cho duy trì chế độ “kim loại – đơn khập khiễng” (mono-métallisme
boiteux). Đến năm 1914, do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới thứ Nhất,
giá bạc đột ngột tăng lên. Trong những năm 1919-1920,
giá đồng bạc bằng 16-17F. Sau năm 1918,
“Đông Dương là nơi duy nhất ở Viễn Đông mà người ta có thể đổi bạc giấy
lấy bạc kim loại” (5). Còn các nơi khác, do tỷ giá bị khống chế, không thể đổi
giấy bạc, kể cả đổi lấy vàng.
Mặc dù
vậy, tình hình trên không duy trì được lâu dài. “Trong bối cảnh gần như toàn thế
giới người ta dùng kim bản vị để ổn định tiền
tệ, đồng tiền Đông Dương cũng bị tác động và ảnh hưởng sâu sắc. Đặc biệt với việc sút giá đột ngột của kim loại bạc
từ năm 1921 đến năm 1929, đồng tiền Đông Dương đã nhanh chóng bị mất giá. Tỷ
giá một đồng Đông Dương năm 1926 là 27F; năm 1927 là 12,8F; cuối năm 1929 dưới
10F (6). Sự hạ giá này là cơ hội để vốn đầu tư tư nhân ở chính quốc đổ xô vào
Đông Dương, trong tình trạng tiền tệ đó, việc ổn định đồng bạc Đông Dương là một điều tối cần thiết bởi
vì: “Tình trạng ngày càng thêm nghiêm trọng,
vì vốn chính quốc đầu tư vào Đông Dương bị tiêu tan cùng lúc với việc hối đoái của đồng bạc với
đồng Franc bị sụp đổ” (7). Tuy nhiên chính phủ vẫn chưa làm được gì đáng kể.
Tóm lại, trong 30 năm đầu thế kỷ,
mặc dầu chính quyền thuộc địa đã thực hiện nhiều biện pháp song vẫn không sao ổn
định được tiền tệ. Rõ ràng cùng với việc thiết lập chế độ thuộc địa và gắn liền
quyền lợi của tư bản tài chính Pháp với nền kinh tế Đông Dương. Chính quyền thực
dân ở thuộc địa đã cố gắng hết sức để gắn đồng tiền Đông Dương với đồng Franc của
Pháp, thế nhưng đồng tiền Đông Dương vẫn luôn lệ thộc vào sự tiến triển của hệ
thống tiền tệ thế giới.
Từ năm
1930, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
bắt đầu tác động đến Đông Dương (nơi xuất khẩu gạo) thì vấn đề ổn định
tiền tệ giữa đồng bạc Đông Dương và đồng Franc Pháp là một vấn đề cấp thiết. Để
có một đồng tiền ổn định, Tổng thống Pháp đã
ra sắc lệnh ngày 31-5-1930. Theo văn bản này, đồng bạc Đông Dương chính thức được đặt dưới chế độ kim bản
vị. Đồng bạc ($), đơn vị tiền tệ của Liên bang Đông Dương được quy định là
665mg vàng, với tỉ lệ là 900/1000, nghĩa là
tương đương với 10 Franc Pháp. Đây là cuộc cải cách mang tính quyết định.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Đông Dương cam kết đổi bạc giấy của mình ra vàng trên một mức tối thiểu quy định. Dù vậy, từ
năm 1931 đến năm 1936, tiền tệ Đông Dương vẫn
bấp bênh và vốn đầu tư của chính quốc vào Đông Dương ngày càng một giảm sút Để cải thiện tình hình, ngày 2-10-1936, Tổng thống Pháp đã ra sắc lệnh chính thức quy định Ngân hàng Đông Dương phải đảm bảo việc
đổi giấy bạc do Ngân hàng phát hành ra đồng Franc theo tỷ lệ 1 đồng bạc Đông
Dương ăn 10 Franc, cho đến lúc định được hàm
lượng vàng của đồng bạc. Chế độ tạm thời
này đã mặc nhiên tồn tại ở Đông Dương đến tận tháng 12-1945 (8). Với sắc
lệnh trên, đồng tiền Đông Dương bị lệ thuộc
hoàn toàn vào đồng tiền Pháp. Về thực chất nó trở thành bộ số của đồng
Franc. Trên thực tế, sắc lệnh đã góp phần vào việc ổn định tạm thời tiền tệ
Đông Dương. Vì vậy cũng từ năm 1936 đã diễn ra cuộc đổ xô mới của vốn đầu tư tư
nhân vào Đông Dương.
*
Tóm lại,
vấn đề tiền tệ ở Đông Dương là một vấn đề rất phức tạp. Trong suốt thời gian thực
dân Pháp cai trị Đông Dương, ở nơi đây chưa bao giờ thực sự có một hệ thống tiền
tệ ổn định, mà nó chỉ là sự kế tiếp nhau
thích nghi của chế độ tiền tệ vì lợi ích của chính quyền thực dân hoặc
các nhóm tư bản tư nhân; hoặc phụ thuộc vào các biến động tỷ giá hối đoái của
tiền tệ thế giới và các biến động của kinh tế chính quốc. Hậu quả của những biến động tiền tệ Đông Dương đã có ảnh hưởng
rất lướn đến mọi hoạt động kinh tế, tài
chính nói chung, đặc biệt là trên lĩnh vực đầu tư vốn của Pháp ở thuộc địa
Đông Dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Đỗ Văn Ninh. Tiền cổ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội 1992, tr. 194.
(2) Viện Khoa học tài chính. Lịch
sử tài chính Việt Nam, Tập 1, Nxb Tài chính, Hà Nội 1995, tr 16
(3) Resismanset, Le mirale francaise en Asie, G. Grèsed Cie, Paris, 1922, tr. 313
(4)(7) C. Robequain. Sự chuyển biến kinh tế của Đông Dương
thuộc Pháp, Nxb Hartmam, Paris
1939, tr. 167, 163.
(5)(6)(8) J. Aumiphin, La
présence financière économique francaise en
Indochine (1859-1939). Thèse pour
le Doctorat, Nice, 1982, tr. 11, 19, 21.