Trong thế kỷ XIX, chế độ phong kiến thời nhà Nguyễn đã suy
yếu, sau 10 thế kỷ được xác lập khi đất nước thoát khỏi ách thống
trị Bắc thuộc. Cũng trong thời gian này, chủ nghĩa tư bản phát triển
ở các nước Âu – Mỹ, dần dần trở thành một hệ thống thế giới. Nhu
cầu xâm chiếm thuộc địa của các nước này ngày một tăng, nguy cơ mất
nước của các dân tộc nhỏ yếu, đang chìm đắm trong chế độ phong kiến,
hoặc các hình thức xã hội trước đó, ngày càng trở nên trầm trọng.
Thực tế lịch sử đặt ra vấn đề cần giải quyết, theo hai hướng
chủ yếu: đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc rồi phát triển,
hoặc bị mất nước, chịu sự thống trị đô hộ của tư bản phương Tây.
Truyền thống của mỗi dân tộc nói chung, của nhân dân Việt Nam nói
riêng là không hề khuất phục lòng tham vô đáy của chủ nghĩa tư bản.
Lịch sử đã chứng minh rằng, không phải “mạnh được yếu thua” là quy
luật của mọi cuộc chiến tranh; dù trong chiến tranh xâm lược, bọn tư
bản, thực dân đã dựa vào lực lượng vũ trang mạnh mẽ của mình để
đàn áp cuộc kháng chiến anh dũng của các dân tộc nhỏ yếu. Theo sự
phát triển hợp quy luật của lịch sử, mọi chế độ áp bức, thống trị
tàn bạo cuối cùng đều bị quật đổ bởi lực lượng đấu tranh của nhân
dân bị thống trị. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
khi nói về triển vọng cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Đông
Dương vào đầu thế kỷ XX: “Đằng dau sự phục tùng tiêu cực của người
Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[1].
Chính nghĩa là một yếu tố tinh thần quan trọng để chiến
thắng, nhưng để giương lá cờ chính nghĩa đánh bại sự xâm lược của
kẻ thù thì phải biến chính nghĩa thành sức mạnh vật chất hùng
mạnh. Một trong những điều kiện để hùng mạnh, biến chính nghĩa
thành sức mạnh vật chất là phải canh tân đất nước. Đòi hỏi canh tân
đất nước là yêu cầu hợp quy luật của sự phát triển lịch sử, do nội
lực của dân tộc và ảnh hưởng của bên ngoài.
Vấn đề này đã được đặt ra ở Việt Nam, cũng như Trung Quốc,
Nhật Bản, XIêm La (Thái Lan ngày nay) và nhiều nước khác đang đứng
trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Yêu cầu canh tân
đất nước là yêu cầu nội tại của mỗi nước, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Tuy nhiên, việc tiến hành canh tân đất nước đến
mức độ nào và thành công hay thất bại lại phụ thuộc rất nhiều ở cơ
sở xã hội, sự nhận thức của nhân dân, đặc biệt là ở người cầm
quyền. Chúng tôi không đi vào việc canh tân đất nước ở một quốc gia
trong khu vực, chúng tôi cũng không đề cập nhiều đến nguyên nhân, diễn
biến, kết quả của các xu hướng duy tân vào nửa sau thế kỷ XIX ở
nước ta mà tập trung vào một nhân vật lịch sử có tư tưởng duy tân, ý
chí, mong muốn thực hiện việc canh tân đất nước, nhưng không thành công
vì không “gặp thời” và không có “thế”. Đó là Đặng Huy Trứ ở Thừa
Thiên – Huế.
Các công trình lịch sử đã nói nhiều về các nhà duy tân thời
Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ, nhưng đối với Đặng Huy Trứ
thì chưa được nhiều, sâu sắc, ngoài các hội thảo khoa học tổ chức ở
Thừa Thiên – Huế.
Đặng Huy Trứ tự là Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tĩnh Trai, sinh
ngày 15 – 5 – 1825 ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, Huyện
Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân trong một gia đình Nho
học, sống ở nông thôn. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Vì vậy,
Đặng Huy Trứ được nuôi dưỡng trong một gia đình mẫu mực về học vấn
và đạo đức, ở một địa phương giàu truyền thống hiếu học, giữ được
phẩm chất tốt đẹp của một vùng quê gần kinh thành. Trong tập “Đặng dịch trai ngôn hành”, viết năm
1868, Đặng Huy Trứ nhớ lại việc dạy dỗ của cha đối với mình, vừa
thân thương vừa nghiêm khắc: “Cha tôi truyền dạy cho ý chính từng
chương, lý lẽ từng đoạn rõ ràng như dạy đứa trẻ chưa biết chữ nào,
thỉnh thoảng lại đem những điều nghe biết được trước kia ra hỏi, yêu
cầu phải trả lời ngay sau tiếng gõ của cha tôi, nếu ngần ngừ không
trả lời ngay được hoặc trả lời không rõ ràng, rành mạch đều bị quở
trách”[2].
Phương pháp giáo dục, tuy nghiêm khắc song cũng buộc người học
phải suy nghĩ, nhận thức ngay để trình bày sự hiểu biết của mình;
điều này ảnh hưởng nhiều đến những ý tưởng cải cách giáo dục của
Đặng Huy Trứ. Cần phải nhấn mạnh: trong bối cảnh lịch sử thời đầu
nhà Nguyễn, trước nguy cơ mất nước, cũng như nhiều nhà yêu nước khác
có kiến thức sâu rộng, không bảo thủ, rụt rè khi tiếp cận cái mới,
Đặng Huy Trứ là một nhà canh tân xuất sắc đương thời. Một nhà nghiên
cứu đã cho rằng Đặng Huy Trứ là một nhân vật tiêu biểu trong số ít
người lúc bấy giờ, ông có “nhân cách độc đáo và tài năng đa dạng,
dấn thân hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế…ở
đâu cũng thể hiện những tư tưởng đặc sắc”[3].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung về mặt
giáo dục – một lĩnh vực mà Đặng Huy Trứ đặc biệt quan tâm và có nhiều
ưu thế. Bởi vì, trước khi ra làm quan, Đặng Huy Trứ đã dạy học
khoảng 10 năm ở quê nhà; do đó, ông có điều kiện rất gần gũi với
nhân dân, hiểu rõ nguyện vọng chính đáng của phụ huynh là muốn cho
con em được học để làm người, xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
Đặng Huy Trứ chú trọng việc giáo dục cho nhân dân, đặc biệt
là lớp người trẻ, vì ông xuất thân từ gia đình dạy học lâu đời, lại
sớm nhận thức được sức mạnh to lớn của nhân dân.
“Ngô nhân tự hữu hồi thiên lực
Ngao
cực lô khôi vị túc khoa”
Dịch nôm:
“Dân ta đủ sức xoay trời lại
Chẳng
đáng khoe chi chuyện vá trời”[4]
Tuy nhiên để cho dân có sức mạnh của Bà Nữ Oa “đội đá vá
trời” và làm xoay chuyển tình thế, người dân cần phải được học hành
mới có thể thoát khỏi cái nhọc nhằn, nhục nhã trong cuộc sống:
“Giờ dần đã tính kế sinh nhai,
Ăn
vội cơm đèn bữa sáng mai
…Thợ
cày thoáng nhận nhau qua bóng.
Cơm
trắng còn vương dính ở môi”[5]
Đây là một quan điểm nhận thức sâu sắc của Đặng Huy Trứ, làm
cơ sở xuất phát cho mọi suy nghĩ, hành động của ông khi là thầy đồ
nghèo hay lúc ra làm quan. Nó thể hiện ở nhiều lĩnh vực mà ông đề
xuất ý tưởng, kế hoạch canh tân đất nước.
Về giáo dục, khác với nhiều người đương thời ông nêu rõ quan
điểm về mục đích học tập là “học để làm người” như ông cha ta đã
xây dựng từ lâu, như bị lối học hành, thi cử chỉ mong để làm quan
chức làm sai lệch, hủy hoại truyền thống tốt đẹp đó “học để làm
người”. Trong tình hình chế độ phong kiến suy yếu, nhân nghĩa nhường
cho bạo tàn, chốn thi cử là trường mua quan bán chức. Đặng Huy Trứ
nhấn mạnh việc học hành phải nhằm đạt được “nhân hòa”:
“Tự cổ nhân hòa đệ nhất
nghĩa
“Thiên
thời, địa lợi tận do chi”
Dịch thơ:
“Muôn thuở nhân hòa xem trọng nhất
Mới
ra địa lợi vốn thiên chi"[6]
Sự thành công, thất bại trong hoạt động của con người, theo
người cưa, chịu sự chi phối của ba yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân
hòa”. Trong ba yếu tố ấy, Đặng Huy Trứ xem “nhân hòa” là quan trọng
nhất, có tính quyết định. Ông cũng nói thêm, muốn có “nhân hòa’ thì
phải hiểu biết mà muốn hiểu biết thì phải học. Tư tưởng này có
thể trở nên lỗi lạc dưới thời phong kiến suy yếu nhà Nguyễn, song nó
đã tiếp thụ tư tưởng truyền thống giáo dục của cha ông và để lại
bài học kinh nghiệm cho chúng ta ngày nay khi xác định đúng mục tiêu
đào tạo.
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, dù là một nhà nho tiến
bộm biết rõ sức mạnh của nhân dân, nặng lòng yêu nước, vẫn mong đánh
đuổi quân Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Đặng Huy Trứ vẫn chưa thoát
khỏi lý tưởng “trung quân, báo quốc”, nên ông xác định trách nhiệm
của người đi học là:
“Ăn lộc ta càng lo việc nước
Tính
sao? Hòa, chiến giữ, hay nhường?”[7]
Nỗi băng khoăn “ăn lộc vua phải lo việc nước” do chưa thể thoát
khỏi tư tưởng quân vương, nhưng không phải sự tuân lệnh một cách mù
quáng mà đặt vấn đề để suy nghĩ, tìm câu giải đáp thích hợp, có
hiệu quả nhất. Tư tưởng này trở thành một phương pháp giáo dục của
Đặng Huy Trứ, phương pháp này có nhiều điểm khác, trái ngược với
lối học kinh viện kiểu cũ. Ông đề ra phương pháp dạy học theo kiểu
“vấn nan” với chủ trương “sư đệ tương trưởng” (thầy trò cùng trưởng
thành), thực chất là “dân chủ hóa” việc giảng dạy và học tập – một
quan niệm mới, tiến bộ so với lúc bấy giờ.
“Phương pháp vấn nan” được Đặng Huy Trứ diễn dạt như sau:
“Việc học của trò
Vấn
nan cần chính xác
Trò
rằng: hiểu rõ thêm
Thầy
càng thêm uyên bác
Dạy
học cần gắng sức,
Thầy
trò không vướng chân
Cùng
nhay đi thuận bước”[8]
Phân tích phương pháp dạy học mà Đặng Huy Trứ đề ra, chúng ta
thấy có những điểm chung, giống với phương pháp tích cực hóa việc
dạy và học phổ biến ở nhiều nước theo xu hướng của giáo dục hiện
đại và đang thực hiện ở nước ta nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh.
Qua phươn pháp dạy học của Đặng Huy Trứ, chúng ta nhận thấy
ông đã quan niệm đúng rằng: dạy và học là hai khâu của một quá
trình thống nhất của việc dạy học, có tác động lẫn nhau. Kết quả
dạy của thầy được phản ánh trong kết quả học tập của học sinh, quá
trình học tập của học sinh với những suy nghĩ, thắc mắc, giải đáp
cũng góp phần làm cho thầy tiến bộ. Như vậy, cả thầy và trò đều
phát triển trong quá trình dạy học vì “thầy trò không vướng chân” mà
“cùng nhau đi thuận bước”.
Khai thác các di thảo của Đặng Huy Trứ nói chung, về giáo dục
nói riêng, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều điều bổ ích về nội dung,
quan điểm, phương pháp luận, mà trong báo cáo này chúng tôi không thể
trình bày. Để hiểu đúng hơn về Đặng Huy Trứ, chúng ta có thể so
sánh với Nguyễn Trường Tộ; nhưng vấn đề như vậy là quá lớn, ở đây
chúng ta chỉ giới thiệu về mặt giáo dục.
Nguyễn Trường Tộ trong khoảng 60 bản điều tràn của mình đã
đề cập đến nhiều lĩnh vực: riêng về giáo dục, trong “Tế cấp bát
điều” (“tám điều cần làm”), ở điều 4 ông xin sửa đổi học thuật, chú
trọng thực dụng. Ông đã chỉ trích việc học tầm chương trích cú theo
lối cũ và đề nghị mở các khoa đào tạo về nông chính, thiên văn và
địa lý, công – kỹ nghệ, luật học, dùng quốc âm (lấy chữ Hán đọc
theo âm Việt), để dạy học. Nguyễn Trường Tộ đã có những đề nghị về
việc đào tạo một cách thiết thực, song chưa nêu được quan điểm, mục
tiêu đào tạo và đổi mới phương pháp dạy học như Đặng Huy Trứ. Tuy
Đặng Huy Trứ không có điều kiện hiểu biết nhiều về nước ngoài để
kiến nghị một cách cụ thể như Nguyễn Trường Tộ, song cũng có tầm
nhìn chiến lược về giáo dục. Sự kết hợp những tư tưởng này sẽ góp
phần canh tân đất nước, tạo nên sức mạnh của dân tộc trong đấu tranh
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hùng mạnh. Trách nhiệm của triều đình
Huế chính là ở chỗ không biết lắng nghe những tư tưởng, kế hoạch
canh tân đất nước của những người như Đặng Huy Trứ và Nguyễn Trường
Tộ.
Qua việc tìm hiểu về Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ với
những đề nghị canh tân đất nước nói chung, canh tân về giáo dục nói
riêng của các ông, chúng ta càng nhận thấy rõ hơn sự trì trệ của
triều đình Huế, một nguyên nhân khiến đất nước rơi vào tay thực dân
Pháp. Những con người như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ xứng đáng
được người đời sau ngưỡng mộ, học tập.
ß
Trường đại học Sư Phạm – ĐH Huế
[1] Hô Chí
Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995, tập 1, tr. 28.
[2] Nhóm
Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ – con người và tác phẩm, NXB Tp. HCM, 1990, tr.
62.
[3] Trương
Thị Yến…Xu hướng mới trong lịch sử Việt Nam – những gương mặt tiêu
biểu. NXB Văn Hóa – Thông Tin – Hà Nội, 1998, tr. 185.
[4] Nhóm
Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ, Sđd, tr. 90.
[5] Sđd, tr.
73
[6] Sđd, tr
190.
[7] Sđd, tr.
151.
[8] Sđd, tr
128.