Vào giữa thế kỷ XIX một vấn đề nổi cộm trong chính sách đối
ngoại của các nước phương Đông là làm thế nào để bảo vệ được độc
lập dân tộc và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trước sự
bành trướng thế lực và các cuộc xâm lăng của các nước phương Tây.
Trong các giải pháp của các nước Đông Bắc Á được xây dựng trên nền
tảng Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên ta có thể thấy một
nét chung đầy lý thú: cố gắng hòa nhập yếu tố cũ và mới, truyền
thống vả hiện đại trên bước đường phát triển của đất nước. Nhưng ở
nước ta, dưới triều Nguyễn, tình hình diễn ra hoàn tòn khác. Trước
vận mạng sống còn của đất nước những nho sĩ thức thời lúc đó đã
trăn trở, suy ngẫm để cuối cùng bật lên những tư tưởng chói sáng trên
những trang điều trần gửi tới
triều đình. Những tư tưởng lớn của cả một lớp Nhật Bản, hợp thành
một dòng phái duy tân mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Trường Tộ. Tiếc
thay những tư tưởng đó không được đưa vào cuộc sống, không trở thành
hiện thực, dù là một phần. Thế lực nào cản trở? Nguyên nhân nào
làm cho xu hướng cải cách hợp thời ấy không đơm hoa kết trái trên đất
nước vốn ít nhiều có truyền thống canh tân? Bài viết này truy tìm
những căn nguyên làm cho những đế nghị duy tân đất nước của Nguyễn
Trường Tộ và rộng hơn của cả dòng phái duy tân cuối thế kỷ XIX bị
thui chột, lụi tàn.
Về phương pháp luận, muốn
đánh giá đúng đắng một nhân vật lịch sử nào đó cần đặt họ vào
thời đại lịch sử mà họ đã sống và hành động. Chúng tôi sẽ không đi
chệch nguyên tắc đó. Nhhân dây cũng thưa rằng, trong nghiên cứu lịch sử
hiện nay có xu hướng nổi lên khá rõ – khai thác thái quá tính chính
trị những vấn đề lịch sử được nghiên cứu. Vì thế, dẫn tới một số
lệch lạc trong nghiên cứu lịch sử như không tôn trọng tính khách quan,
hoặc hiện đại hóa lịch sử v.v…Trên tinh thần đó, chúng tôi đặt
Nguyễn Trường Tộ vào thời đại mà ông đã sống và hành động để
nghiên cứu và phán xét, chứ không xuất phát từ ý muốn chủ quan được
hình thành trên cơ sở những yêu cầu bức bách hiện thời. Nghiên cứu
con người Nguyễn Trường Tộ với toàn bộ di sản của ông và thời đại ấy
trong những nghịch lý khiến cho thời đại ông không tiếp nhận những tư
tưởng lớn của ông. Dưới đây chúng tôi xin lần lượt trình bày một số
những nghịch lý chủ yếu.
Nghịch lý 1: Một trí thức
tiên tiến và đám vua quan lạc hậu.
Nguyễn Trường Tộ là một người thông minh. Lúc còn đi học, ông
đã nổi tiếng về sự uyên bác nên mọi người gọi ông là “Trạng Tô”.
Trong gần 10 năm đèn sách, ông có một vốn Hán học hết sức phong phú,
một khối lượng kiến thức đồ sộ
về văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc. Cũng ở
thời kỳ học chữ Hán này, ở ông đã bộc lộ năng lực quan sát, phát
triển những điều mới mẻ mà ông cảm nhận được ở thế giới xung quanh.
Có lẽ tư chất này giúp ông không ngỡ ngàng, mà hội nhập nhanh chóng
khi lần đầu tiên tiếp xúc với nền văn minh phương tây qua Giám mục
Gauchier (tên Việt Nam là Ngô Gia Hâu. Năm đó Nguyễn Trường Tộ mới 25
tuổi, độ tuổi đẹp nhất về sự tiếp nhận tri thức của một đời
người. Trong gần 3 năm giúp Gauchier dạy chữ Hán cho Chủng viện Xã
Đoaiì và nhận từ Cha Hậu tiếng Pháp và một vài môn học phổ thông.
Cha Hậu đã phát hiện ở ông những đức tính đốt đẹp của một con
người có tài. Cha hậu cho ông đi thăm Hương Cảng, Singapore (những vùng
đất thuộc địa của Anh) và rồi gửi ông tới Paris du học hơn 2 năm.
Những gì thu nhận được trong những chuyến đi, đặc biệt là những năm
tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Pháp là nền tảng căn bản hình
thành tư tưởng duy tân, ở ông đã kết hợp tinh hoa văn hóa Đông – Tây.
Thành quả của sự kết hợp ấy được biểu hiện rõ nét, đầy đủ, trọn
vẹn trong toàn bộ những bản điều trần gửi triều đình Huế từ năm
1861 đến năm 1871. cũng ở đây nổi lên khối lượng kiến thức đồ sộ,
tầm nhìn xa rộng và sự nhạy cảm tinh tế với thời cuộc của ông. Tất
cả những điều đó làm cho ông vượt lên trên những người đương thời,
tương phản gay gắt với vua Tự Đức và các quan đại thần, những người
chăn dắt muôn dân, cai trị đất nước và đang nắm vận mệnh của xã tắc.
Chúng ta điều biết, Tự Đức là một ông vua thể chất ốm yếu, bệnh
đậu mùa đã để lại ở ông vua này di chứng nặng nề suốt cả cuộc đời
– không có khả năng sinh con, thỉnh thoảng lên con chóng mặt, ngất xỉu.
Bài văn ở bia mộ do chính Tự Đức soạn năm 1867, tức trước khi mất 16
năm (mất năm 1883) cung cấp một lời thú tội:
“Ta còn bị những cơn đau như sét đánh làm ta suýt chết. Ta
ngất đi rồi tỉnh lại. Ta thường bị chóng mặt, mắt mờ…Bệnh tật làm
cho ta sao lãng các nghi lễ truyền thống và làm cho ta không thể chăm
lo các việc triều chính nhiều hơn nữa”[1].
Với thể chất như vậy, suốt đời Tự Đức tự giam mình trong cung
cấm. Có lẽ, cả đời vua chỉ có một chuyến di duy nhất – ra Hà Nội
trong dịp lễ phong vương của vua Thiệu Trị và đều đặn mỗi năm 2 lần
ra của biển Thuận An, cách huế không đầy 10km, để tránh thời tiết
nồng về mùa hạ và rét về mùa đông. Một ông vua như vậy làm sao có
được tính cách của một nhà chính trị xông xáo, quyết đoán khi đất
nước đang ở trong tình hình nước sôi lửa bỏng.
Toàn bộ những chính sách của triều đình được hình thành tại
Huế từ thông tin méo mó nhận được qua một kênh duy nhất là các quan
đại thần, tách khỏi cuộc sống sôi động của đất nước hệt như “ếch
ngồi đáy giếng”. Tự Đức, dù là người uyên bác bậc nhất thời đó,
cũng chỉ là môn đồ cuồng nhiệt của Khổng học, một nhà thơ hơn là
một nhà chính trị. Về mặt tư tưởng, Tự Đức và các nho sĩ thời đó
tỏ ra “bảo hoàng hơn cả vua”, tất cả đều nhất nhất bám giữ lấy
những định đề Nho giáo làm chuẩn mực trong hành động, trong khi đó
đất nước sinh ra Nho giáo và các nước lân bang đang chuyển động theo
hướng mềm hơn. Chín năm sau khi Tự Đức mất, ông Paker, lãnh sự Anh tại
Trung Hoa ghé thăm Huế đã chứng kiến một cuộc đón tiếp của triều
đình: “Từ cổng, chúng tôi tiến vào giữa hai hàng quan lại, con số
đến 600 người, tất cả đều mặt triều phục, có vẻ là triều phục nhà
Minh bên Trung Hoa”[2].
Chúng ta không biết tường tận ý kiến của Tự Đức phê phán các
bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ trong kho Châu bản nhưng xét theo những điều trình bày ở trên chúng
ta thấy Tự Đức với tư cách người đứng đầu nhà nước và cả triều
đình Huế chưa sẵn sàng tiếp nhận những tư tưởng mới mẻ, trong đó có
những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Nhà Nguyễn thời đó
đã thiếu một minh quân như Minh Trị bên Nhật Bản.
Nghịch lý 2: Chiến tranh và
hòa bình
Về Nguyên tắc, duy tân đất nước chỉ được thực hiện trong thời
bình. Ở thời đó có đầy đủ điều kiện về thời gian và nhân tài vật
lực cho việc canh tân, chấn hưng đất nước. Nguyễn Trường Tộ true thay,
về thời gian những tập điều trần của Nguyễn Trường Tộ được soạn
thảo, đệ trình từ năm 1861 đến 1871, đúng vào thời kỳ đất nước có
chiến tranh, giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông (1862), rồi toàn xứ Nam
kỳ lục tỉnh (1867) và đang muốn tìm cớ cho cuộc viễn chinh Bắc Kỳ.
Trong thời chiến, đặc biệt khi đất nước đang đứng trước nguy cơ bị
thôn tính hết, giải pháp duy nhất hợp với truyền thống là tập trung
trí tuệ, sức lực, của cải cho cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Mọi
khoản chi đều dồn hết cho quân sự. Trong bối cảnh đó, còn đâu thời
gian, sức lực và tiền của để thực hiện những dự án khổng lồ của
Nguyễn Trường Tộ. Thời chiến làm sao có thể chấp nhận những đề án
ngốn nhiều tiền của để rồi nguy cơ bị tàn phá, nó chỉ chấp nhận
những điều chỉnh phù hợp với chiến tranh, chủ yếu nhằm mục đích
quân sự. Ý tưởng tốt đẹp của Nguyễn Trường Tộ không tính tới khả
năng thực hiện khi đất nước có chiến tranh.
Nghịch lý 3: Truyền thống
và phản truyền thống
Nước ta cũng tồn tại bên cạnh một nước lớn có một nền văn
minh bậc nhất thế giới, lấy bành trướng và đồng hóa các dân tộc
khác làm nền tảng trong chính sách đối ngoại của họ. Để tồn tại
và phát triền với chính bản sắc riêng của mình, dân tộc ta đã tự
lựa chọn cho mình một giải pháp tối ưu – chống trả một cách kiên
quyết và bền bỉ. Tính cách đó được lưu truyền từ thế hệ nọ sang
thế hệ kia, để rồi từ đó hình thành nên một truyền thống tốt đẹp –
bất khuất trước quân thù. Giặc
đến, trên dưới đồng lòng quyết đánh, đánh một năm không thắng, đánh
nhiều năm cho đến khi trên đất nước không còn bóng giặc mới thôi. Ai
dao động ngã nghiêng, ai cầu hòa với giặc, ai vì miếng cơm manh áo
theo giặc đều bị kết tội đi ngược với truyền thống, phản bội Tổ
quốc, dù đó là vua. Trước Nguyễn đã như vậy, thời Nguyễn vẫn như
vậy. Dưới thời Nguyễn chữ trung quân của nho giáo – xiềng xích buộc
chặc thần dân vào ngai vua, đã bị bẻ gẫy từng mắt một, có lẽ bắt
đầu từ Trương Định và tiến tới đỉnh điểm ở cuộc khởi nghĩa của
Trần Tấn và Đặng Như Mai trên đất Nghệ Tĩnh năm 1874 khi triều đình
Huế ký hàng ước Giáp Tuất thừa nhận quyền cai trị của thực dân
Pháp trên miền lục tỉnh Nam kỳ.
“Rập rình trống đánh cờ xiêu
Phen
này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Vua và triều đình từ cầu hòa đến cắt đất cho giặc đã bị
kết tội phản bội Tổ quốc, đi ngược truyền thống bất khuất và trở
thành đối tượng của phong trào kháng chiến. Trong con mắt của nhân dân
vua đã như vây, huống chi Nguyễn Trường Tộ, mặc dù trong thâm tâm và
trong những tư tưởng ở các tập điều trần, hòa chỉ là một kế sách
tranh thủ thời gian duy tân đất nước, chuẩn bị mọi điều kiện để lấy
lại những vùng đất đã mất. Dù là như vậy, đối với dân ta, hòa có
nghĩa là đi ngược lại với truyền thống, phản lại truyền thống, làm
nhục ý chí, phân tán lực lượng, trong cuộc chiến đấu chống quân thù.
Do vậy, phe chủ hòa trong đó có dòng phái cải cách đã bị nhân dân
lên án, kết tội, không có chỗ đứng trong tâm thức của nhân dân.
Nghịch lý 4: Lương và Giáo
Lương và Giáo viết gọn
như vậy, nhưng thực ra đây là một cặp khái niệm chỉ hai cộng đồng
người – cộng đồng người theo đạo Thiên chúa giáo (gọi là Giáo) và
cộng đồng người nằm ngoài tôn giáo (gọi là Lương). Hai cộng đồng
người đó đã tiến hành những cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt, đôi khi
dẫn tới những cuộc “bách hại” suốt nhiều thế kỷ, đặc biệt dưới
thời Nguyễn, bởi lã “Thiên chúa giáo đã gia nhập đất Việt cùng một
chiếc thuyền và cùng một ngọn nước với bọn đế quốc đi cướp thuộc
địa”[3].
Trong con mắt của những người bên Lương, những người bên giáo
đã đặt Chúa trời lên trên Tổ tiên, đã đặt “Thiên chúa trên Tổ quốc”,
“đạo trước dân tộc”, người theo giáo đã đứng về phía địch, giúp
giặc và phản bội Tổ quốc. Những điều đó đã đi qua nhiều thế hệ để
rồi đến khi Nguyễn Trường Tộ trở thành những định kiến, những định
kiến mù quáng đến nỗi không phân biệt được những người công giáo
kính chúa yêu nước và những người công giáo theo giặc. Đối với
Nguyễn Trường Tộ, điều trớ trêu là ở chỗ đó. Nguyễn Trường Tộ một
trăm phần trăm là người công giáo
kính chúa yêu nước. Trong Thiên
hạ đại thế luận ông đã bộc bạch: “Biết mà không nói là bất
nhân, nói mà không hết lời là bất nghĩa. Nay tôi tuy ở chốn giang hồ
mà lòng vẫn ở nơi đế khuyết, tôi không nỡ trong nước mà chia sẻ, trăm
họ lưu ly, nên chi chức phận thấp hèn mà cũng chẳng ngại bày tỏ
đường đột”. Năm 1871, trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông vẫn trăn
trở sao cho nước mạnh dân giáu. Định kiến hẹp hòi với người theo công
giáo đã không tính đến điều đó, chỉ xếp ông theo một chuẩn mực đã
định sẵn: ông là người theo đạo Thiên chúa, đã từng hợp tác với
giặc Pháp nên không tốt, thế thôi. Định kiến đó vẫn theo mãi cho tới
gần đây. Năm 1961 vẫn có người cho rằng: “Nguyễn Trường Tộ là một con
người có nhiều nghi vấn về chính trị”[4].
Thuở này còn thế, thuở đó chắc còn nặng nề hơn.
Nghịch lý 5: Thực và ảo
Trong dòng phái duy tân nửa cuối thế kỷ XIX những đề nghị cải
cách của Nguyễn Trường Tộ là hệ thống nhất, đầy đủ nhất và toàn
diện nhất. Phần lớn những đề nghị của ông là thực tế, cụ thể và
chi tiết, do vậy có tính khả thi cao. Bên cạnh ưu điểm lớn đó, trong
các bản điều trần, đây đó lộ ra những điều không thực tế, tựa như
ông sao chép nguyên văn những điều đọc được, thấy được ở nước người,
không có tính đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta thời
đó. Có những điều không tưởng đến lạ và như vậy không có tính khả
thi. Thực và ảo, hiện thực và không tưởng trở thành hai cực đối lập
trong một số điều trần của ông. Ở đây chúng tôi xin dẫn ra làm ví dụ
những điều không tưởng trong một số điều trần của ông.
Chẳng hạn, trong một bản điều trần Nguyễn Trường Tộ nêu ra 4
biện pháp dẹp hải tặc nhằm phát triển nội ngoại thương, trong đó
theo chúng tôi có hai biện pháp là không tưởng:
1. Nhà nước nhờ Pháp đàn áp
2. Xúc tiến việc đào kênh nội địa thay cho vận chuyển đường
biển. Cụ thể, theo ông đề nghị Nhà nước đào một con kêh từ Hải Dương
đến kinh đô Huế.
Làm sao có thể nhờ kẻ thù giúp ta dẹp hải tặc được. Thực
dân Pháp trong quá trình thôn tính nước ta đã ép triều đình Huế,
mượn tay triều đình Huế làm những việc vì lợi ích của chúng. Điều
đó thể hiện rỏ trong hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 có một điều khoản
nói rõ Pháp sẽ trả Vĩnh Long cho triều đình Huế với điều kiện
triều đình dẹp yên những cuộc nổi dậy của nông dân các tỉnh miền
Đông mà chúng chiếm đóng, mà trung tâm là cuộc khởi nghĩa Trương Định
ở Tân An, Gò Công thuộc tỉnh Định Tường. Còn giải pháp thứ hai cũng
tương tự. Làm sao với kỹ thuật của ta, sức của ta vào nửa cuối thế
kỷ XIX lại có thể đào được một con kênh nối sông Hồng ở bắc với
sông Hương ở miền Trung, dù là đào từng đoạn nối sông Hồng với sông
Đáy, nối sông Đáy với sông Mã, nối sông Mã với sông Lam, nối sông Lam
với sông Gianh, nối sông Gianh với sông Thạch Hãn, nối từ Thạch Hãn
tới sông Hương. Kỹ thuật thời đó chưa cho phép xuyên thủng dãy Hoành
Dơn (ở đoạn đèo Ngang bây giờ) để dẫn nước sông Lam (Nghệ An) hòa vào
sông Gianh (Quảng Bình). Mãi đến đầu thế kỷ XX khi xây dựng tuyến
đường sắt xuyên Việt, nước Pháp không đủ khả năng khắc phục chướng ngại
vật thiên nhiên đó, cho nên khi đường sắt tới Vinh, họ đã “nắn” cho
đường sắt ngược lên Trường Sơn ở Tân Ấp (Quảng Bình) rồi từ đó chạy
xiên về Đồng Hới. Cực chẳng đã mới làm như vậy, chứ thực ra đoạn
đường s8at1 từ Vinh đến Đồng Hới là đoạn đường phi kinh tế nhất.
Năm nghịch lý đã nêu (4 nghịch lý khách quan và 1 nghịch lý
chủ quan) tạo thành một bức tường kiên cố không thể vượt qua. Những
bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ và của cả dòng phái cải cách
nửa cuối thế kỷ XIX đã va phải bức tường kiên cố đó, vỡ tung thành
những mảnh vụn, để rồi chỉ còn lại trong ký ức đẹp đẽ của người
Việt chúng ta như những ước mơ về con đường dẫn đến dân giàu, nước
mạnh.
ß
KHoa Lịch Sử trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội
[1] Bia mộ
dựng ở Khiêm Lăng, Huế.
[2] Dẫn
theo Yoshihara, Nước Đại Nam đối diện
với Pháp và Trung Hoa, Ban khoa học xã hội Thành ủy TP. Hồ Chí
Minh xuất bản, 1990, tr. 184.
[3] Hồ
Vương. Trở về dân tộc, tập san
Nhịp cầu, số 2, 1962.
[4] Xin xem
bài: Góp them ý kiến về việc đánh
giá Nguyễn Trường Tộ của hồ Hữu Phước và Phạm Thị Minh Lê. TC Nghiên cứu lịch sử, số 31, 10 –
1961.
No comments:
Post a Comment