Saturday, July 2, 2016

ĐẶNG HUY TRỨ – NHÀ CANH TÂN GIÁO DỤC THỜI NGUYỄN



TS. Trần Vĩnh Tườngß

Trong thế kỷ XIX, chế độ phong kiến thời nhà Nguyễn đã suy yếu, sau 10 thế kỷ được xác lập khi đất nước thoát khỏi ách thống trị Bắc thuộc. Cũng trong thời gian này, chủ nghĩa tư bản phát triển ở các nước Âu – Mỹ, dần dần trở thành một hệ thống thế giới. Nhu cầu xâm chiếm thuộc địa của các nước này ngày một tăng, nguy cơ mất nước của các dân tộc nhỏ yếu, đang chìm đắm trong chế độ phong kiến, hoặc các hình thức xã hội trước đó, ngày càng trở nên trầm trọng.
Thực tế lịch sử đặt ra vấn đề cần giải quyết, theo hai hướng chủ yếu: đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc rồi phát triển, hoặc bị mất nước, chịu sự thống trị đô hộ của tư bản phương Tây. Truyền thống của mỗi dân tộc nói chung, của nhân dân Việt Nam nói riêng là không hề khuất phục lòng tham vô đáy của chủ nghĩa tư bản. Lịch sử đã chứng minh rằng, không phải “mạnh được yếu thua” là quy luật của mọi cuộc chiến tranh; dù trong chiến tranh xâm lược, bọn tư bản, thực dân đã dựa vào lực lượng vũ trang mạnh mẽ của mình để đàn áp cuộc kháng chiến anh dũng của các dân tộc nhỏ yếu. Theo sự phát triển hợp quy luật của lịch sử, mọi chế độ áp bức, thống trị tàn bạo cuối cùng đều bị quật đổ bởi lực lượng đấu tranh của nhân dân bị thống trị. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định khi nói về triển vọng cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Đông Dương vào đầu thế kỷ XX: “Đằng dau sự phục tùng tiêu cực của người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[1].
Chính nghĩa là một yếu tố tinh thần quan trọng để chiến thắng, nhưng để giương lá cờ chính nghĩa đánh bại sự xâm lược của kẻ thù thì phải biến chính nghĩa thành sức mạnh vật chất hùng mạnh. Một trong những điều kiện để hùng mạnh, biến chính nghĩa thành sức mạnh vật chất là phải canh tân đất nước. Đòi hỏi canh tân đất nước là yêu cầu hợp quy luật của sự phát triển lịch sử, do nội lực của dân tộc và ảnh hưởng của bên ngoài.
Vấn đề này đã được đặt ra ở Việt Nam, cũng như Trung Quốc, Nhật Bản, XIêm La (Thái Lan ngày nay) và nhiều nước khác đang đứng trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Yêu cầu canh tân đất nước là yêu cầu nội tại của mỗi nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, việc tiến hành canh tân đất nước đến mức độ nào và thành công hay thất bại lại phụ thuộc rất nhiều ở cơ sở xã hội, sự nhận thức của nhân dân, đặc biệt là ở người cầm quyền. Chúng tôi không đi vào việc canh tân đất nước ở một quốc gia trong khu vực, chúng tôi cũng không đề cập nhiều đến nguyên nhân, diễn biến, kết quả của các xu hướng duy tân vào nửa sau thế kỷ XIX ở nước ta mà tập trung vào một nhân vật lịch sử có tư tưởng duy tân, ý chí, mong muốn thực hiện việc canh tân đất nước, nhưng không thành công vì không “gặp thời” và không có “thế”. Đó là Đặng Huy Trứ ở Thừa Thiên – Huế.
Các công trình lịch sử đã nói nhiều về các nhà duy tân thời Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ, nhưng đối với Đặng Huy Trứ thì chưa được nhiều, sâu sắc, ngoài các hội thảo khoa học tổ chức ở Thừa Thiên – Huế.
Đặng Huy Trứ tự là Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tĩnh Trai, sinh ngày 15 – 5 – 1825 ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, Huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, sống ở nông thôn. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Vì vậy, Đặng Huy Trứ được nuôi dưỡng trong một gia đình mẫu mực về học vấn và đạo đức, ở một địa phương giàu truyền thống hiếu học, giữ được phẩm chất tốt đẹp của một vùng quê gần kinh thành. Trong tập “Đặng dịch trai ngôn hành”, viết năm 1868, Đặng Huy Trứ nhớ lại việc dạy dỗ của cha đối với mình, vừa thân thương vừa nghiêm khắc: “Cha tôi truyền dạy cho ý chính từng chương, lý lẽ từng đoạn rõ ràng như dạy đứa trẻ chưa biết chữ nào, thỉnh thoảng lại đem những điều nghe biết được trước kia ra hỏi, yêu cầu phải trả lời ngay sau tiếng gõ của cha tôi, nếu ngần ngừ không trả lời ngay được hoặc trả lời không rõ ràng, rành mạch đều bị quở trách”[2].
Phương pháp giáo dục, tuy nghiêm khắc song cũng buộc người học phải suy nghĩ, nhận thức ngay để trình bày sự hiểu biết của mình; điều này ảnh hưởng nhiều đến những ý tưởng cải cách giáo dục của Đặng Huy Trứ. Cần phải nhấn mạnh: trong bối cảnh lịch sử thời đầu nhà Nguyễn, trước nguy cơ mất nước, cũng như nhiều nhà yêu nước khác có kiến thức sâu rộng, không bảo thủ, rụt rè khi tiếp cận cái mới, Đặng Huy Trứ là một nhà canh tân xuất sắc đương thời. Một nhà nghiên cứu đã cho rằng Đặng Huy Trứ là một nhân vật tiêu biểu trong số ít người lúc bấy giờ, ông có “nhân cách độc đáo và tài năng đa dạng, dấn thân hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế…ở đâu cũng thể hiện những tư tưởng đặc sắc”[3].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung về mặt giáo dục – một lĩnh vực mà Đặng Huy Trứ đặc biệt quan tâm và có nhiều ưu thế. Bởi vì, trước khi ra làm quan, Đặng Huy Trứ đã dạy học khoảng 10 năm ở quê nhà; do đó, ông có điều kiện rất gần gũi với nhân dân, hiểu rõ nguyện vọng chính đáng của phụ huynh là muốn cho con em được học để làm người, xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
Đặng Huy Trứ chú trọng việc giáo dục cho nhân dân, đặc biệt là lớp người trẻ, vì ông xuất thân từ gia đình dạy học lâu đời, lại sớm nhận thức được sức mạnh to lớn của nhân dân.
            “Ngô nhân tự hữu hồi thiên lực
            Ngao cực lô khôi vị túc khoa”
Dịch nôm:
            “Dân ta đủ sức xoay trời lại
            Chẳng đáng khoe chi chuyện vá trời”[4]
Tuy nhiên để cho dân có sức mạnh của Bà Nữ Oa “đội đá vá trời” và làm xoay chuyển tình thế, người dân cần phải được học hành mới có thể thoát khỏi cái nhọc nhằn, nhục nhã trong cuộc sống:
            “Giờ dần đã tính kế sinh nhai,
            Ăn vội cơm đèn bữa sáng mai
            …Thợ cày thoáng nhận nhau qua bóng.
            Cơm trắng còn vương dính ở môi”[5]
Đây là một quan điểm nhận thức sâu sắc của Đặng Huy Trứ, làm cơ sở xuất phát cho mọi suy nghĩ, hành động của ông khi là thầy đồ nghèo hay lúc ra làm quan. Nó thể hiện ở nhiều lĩnh vực mà ông đề xuất ý tưởng, kế hoạch canh tân đất nước.
Về giáo dục, khác với nhiều người đương thời ông nêu rõ quan điểm về mục đích học tập là “học để làm người” như ông cha ta đã xây dựng từ lâu, như bị lối học hành, thi cử chỉ mong để làm quan chức làm sai lệch, hủy hoại truyền thống tốt đẹp đó “học để làm người”. Trong tình hình chế độ phong kiến suy yếu, nhân nghĩa nhường cho bạo tàn, chốn thi cử là trường mua quan bán chức. Đặng Huy Trứ nhấn mạnh việc học hành phải nhằm đạt được “nhân hòa”:
           
Tự cổ nhân hòa đệ nhất nghĩa
            “Thiên thời, địa lợi tận do chi”

Dịch thơ:
            “Muôn thuở nhân hòa xem trọng nhất
            Mới ra địa lợi vốn thiên chi"[6]
Sự thành công, thất bại trong hoạt động của con người, theo người cưa, chịu sự chi phối của ba yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Trong ba yếu tố ấy, Đặng Huy Trứ xem “nhân hòa” là quan trọng nhất, có tính quyết định. Ông cũng nói thêm, muốn có “nhân hòa’ thì phải hiểu biết mà muốn hiểu biết thì phải học. Tư tưởng này có thể trở nên lỗi lạc dưới thời phong kiến suy yếu nhà Nguyễn, song nó đã tiếp thụ tư tưởng truyền thống giáo dục của cha ông và để lại bài học kinh nghiệm cho chúng ta ngày nay khi xác định đúng mục tiêu đào tạo.
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, dù là một nhà nho tiến bộm biết rõ sức mạnh của nhân dân, nặng lòng yêu nước, vẫn mong đánh đuổi quân Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Đặng Huy Trứ vẫn chưa thoát khỏi lý tưởng “trung quân, báo quốc”, nên ông xác định trách nhiệm của người đi học là:
            “Ăn lộc ta càng lo việc nước
            Tính sao? Hòa, chiến giữ, hay nhường?”[7]
Nỗi băng khoăn “ăn lộc vua phải lo việc nước” do chưa thể thoát khỏi tư tưởng quân vương, nhưng không phải sự tuân lệnh một cách mù quáng mà đặt vấn đề để suy nghĩ, tìm câu giải đáp thích hợp, có hiệu quả nhất. Tư tưởng này trở thành một phương pháp giáo dục của Đặng Huy Trứ, phương pháp này có nhiều điểm khác, trái ngược với lối học kinh viện kiểu cũ. Ông đề ra phương pháp dạy học theo kiểu “vấn nan” với chủ trương “sư đệ tương trưởng” (thầy trò cùng trưởng thành), thực chất là “dân chủ hóa” việc giảng dạy và học tập – một quan niệm mới, tiến bộ so với lúc bấy giờ.
“Phương pháp vấn nan” được Đặng Huy Trứ diễn dạt như sau:
            “Việc học của trò
            Vấn nan cần chính xác
            Trò rằng: hiểu rõ thêm
            Thầy càng thêm uyên bác
            Dạy học cần gắng sức,
            Thầy trò không vướng chân
            Cùng nhay đi thuận bước”[8]
Phân tích phương pháp dạy học mà Đặng Huy Trứ đề ra, chúng ta thấy có những điểm chung, giống với phương pháp tích cực hóa việc dạy và học phổ biến ở nhiều nước theo xu hướng của giáo dục hiện đại và đang thực hiện ở nước ta nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Qua phươn pháp dạy học của Đặng Huy Trứ, chúng ta nhận thấy ông đã quan niệm đúng rằng: dạy và học là hai khâu của một quá trình thống nhất của việc dạy học, có tác động lẫn nhau. Kết quả dạy của thầy được phản ánh trong kết quả học tập của học sinh, quá trình học tập của học sinh với những suy nghĩ, thắc mắc, giải đáp cũng góp phần làm cho thầy tiến bộ. Như vậy, cả thầy và trò đều phát triển trong quá trình dạy học vì “thầy trò không vướng chân” mà “cùng nhau đi thuận bước”.
Khai thác các di thảo của Đặng Huy Trứ nói chung, về giáo dục nói riêng, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều điều bổ ích về nội dung, quan điểm, phương pháp luận, mà trong báo cáo này chúng tôi không thể trình bày. Để hiểu đúng hơn về Đặng Huy Trứ, chúng ta có thể so sánh với Nguyễn Trường Tộ; nhưng vấn đề như vậy là quá lớn, ở đây chúng ta chỉ giới thiệu về mặt giáo dục.
Nguyễn Trường Tộ trong khoảng 60 bản điều tràn của mình đã đề cập đến nhiều lĩnh vực: riêng về giáo dục, trong “Tế cấp bát điều” (“tám điều cần làm”), ở điều 4 ông xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng. Ông đã chỉ trích việc học tầm chương trích cú theo lối cũ và đề nghị mở các khoa đào tạo về nông chính, thiên văn và địa lý, công – kỹ nghệ, luật học, dùng quốc âm (lấy chữ Hán đọc theo âm Việt), để dạy học. Nguyễn Trường Tộ đã có những đề nghị về việc đào tạo một cách thiết thực, song chưa nêu được quan điểm, mục tiêu đào tạo và đổi mới phương pháp dạy học như Đặng Huy Trứ. Tuy Đặng Huy Trứ không có điều kiện hiểu biết nhiều về nước ngoài để kiến nghị một cách cụ thể như Nguyễn Trường Tộ, song cũng có tầm nhìn chiến lược về giáo dục. Sự kết hợp những tư tưởng này sẽ góp phần canh tân đất nước, tạo nên sức mạnh của dân tộc trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hùng mạnh. Trách nhiệm của triều đình Huế chính là ở chỗ không biết lắng nghe những tư tưởng, kế hoạch canh tân đất nước của những người như Đặng Huy Trứ và Nguyễn Trường Tộ.
Qua việc tìm hiểu về Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ với những đề nghị canh tân đất nước nói chung, canh tân về giáo dục nói riêng của các ông, chúng ta càng nhận thấy rõ hơn sự trì trệ của triều đình Huế, một nguyên nhân khiến đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Những con người như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ xứng đáng được người đời sau ngưỡng mộ, học tập.



ß Trường đại học Sư Phạm – ĐH Huế
[1] Hô Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 28.
[2] Nhóm Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ – con người và tác phẩm, NXB Tp. HCM, 1990, tr. 62.
[3] Trương Thị Yến…Xu hướng mới trong lịch sử Việt Nam – những gương mặt tiêu biểu. NXB Văn Hóa – Thông Tin – Hà Nội, 1998, tr. 185.
[4] Nhóm Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ, Sđd, tr. 90.
[5] Sđd, tr. 73
[6] Sđd, tr 190.
[7] Sđd, tr. 151.
[8] Sđd, tr 128.

No comments:

Post a Comment