Saturday, July 2, 2016

ĐẶNG HUY TRỨ – NHÀ CANH TÂN GIÁO DỤC THỜI NGUYỄN



TS. Trần Vĩnh Tườngß

Trong thế kỷ XIX, chế độ phong kiến thời nhà Nguyễn đã suy yếu, sau 10 thế kỷ được xác lập khi đất nước thoát khỏi ách thống trị Bắc thuộc. Cũng trong thời gian này, chủ nghĩa tư bản phát triển ở các nước Âu – Mỹ, dần dần trở thành một hệ thống thế giới. Nhu cầu xâm chiếm thuộc địa của các nước này ngày một tăng, nguy cơ mất nước của các dân tộc nhỏ yếu, đang chìm đắm trong chế độ phong kiến, hoặc các hình thức xã hội trước đó, ngày càng trở nên trầm trọng.
Thực tế lịch sử đặt ra vấn đề cần giải quyết, theo hai hướng chủ yếu: đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc rồi phát triển, hoặc bị mất nước, chịu sự thống trị đô hộ của tư bản phương Tây. Truyền thống của mỗi dân tộc nói chung, của nhân dân Việt Nam nói riêng là không hề khuất phục lòng tham vô đáy của chủ nghĩa tư bản. Lịch sử đã chứng minh rằng, không phải “mạnh được yếu thua” là quy luật của mọi cuộc chiến tranh; dù trong chiến tranh xâm lược, bọn tư bản, thực dân đã dựa vào lực lượng vũ trang mạnh mẽ của mình để đàn áp cuộc kháng chiến anh dũng của các dân tộc nhỏ yếu. Theo sự phát triển hợp quy luật của lịch sử, mọi chế độ áp bức, thống trị tàn bạo cuối cùng đều bị quật đổ bởi lực lượng đấu tranh của nhân dân bị thống trị. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định khi nói về triển vọng cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Đông Dương vào đầu thế kỷ XX: “Đằng dau sự phục tùng tiêu cực của người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”[1].
Chính nghĩa là một yếu tố tinh thần quan trọng để chiến thắng, nhưng để giương lá cờ chính nghĩa đánh bại sự xâm lược của kẻ thù thì phải biến chính nghĩa thành sức mạnh vật chất hùng mạnh. Một trong những điều kiện để hùng mạnh, biến chính nghĩa thành sức mạnh vật chất là phải canh tân đất nước. Đòi hỏi canh tân đất nước là yêu cầu hợp quy luật của sự phát triển lịch sử, do nội lực của dân tộc và ảnh hưởng của bên ngoài.
Vấn đề này đã được đặt ra ở Việt Nam, cũng như Trung Quốc, Nhật Bản, XIêm La (Thái Lan ngày nay) và nhiều nước khác đang đứng trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Yêu cầu canh tân đất nước là yêu cầu nội tại của mỗi nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Tuy nhiên, việc tiến hành canh tân đất nước đến mức độ nào và thành công hay thất bại lại phụ thuộc rất nhiều ở cơ sở xã hội, sự nhận thức của nhân dân, đặc biệt là ở người cầm quyền. Chúng tôi không đi vào việc canh tân đất nước ở một quốc gia trong khu vực, chúng tôi cũng không đề cập nhiều đến nguyên nhân, diễn biến, kết quả của các xu hướng duy tân vào nửa sau thế kỷ XIX ở nước ta mà tập trung vào một nhân vật lịch sử có tư tưởng duy tân, ý chí, mong muốn thực hiện việc canh tân đất nước, nhưng không thành công vì không “gặp thời” và không có “thế”. Đó là Đặng Huy Trứ ở Thừa Thiên – Huế.
Các công trình lịch sử đã nói nhiều về các nhà duy tân thời Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Trường Tộ, nhưng đối với Đặng Huy Trứ thì chưa được nhiều, sâu sắc, ngoài các hội thảo khoa học tổ chức ở Thừa Thiên – Huế.
Đặng Huy Trứ tự là Hoàng Trung, hiệu Vọng Tân, Tĩnh Trai, sinh ngày 15 – 5 – 1825 ở làng Thanh Lương, nay thuộc xã Hương Xuân, Huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, sống ở nông thôn. Ông nội và cha đều làm nghề dạy học. Vì vậy, Đặng Huy Trứ được nuôi dưỡng trong một gia đình mẫu mực về học vấn và đạo đức, ở một địa phương giàu truyền thống hiếu học, giữ được phẩm chất tốt đẹp của một vùng quê gần kinh thành. Trong tập “Đặng dịch trai ngôn hành”, viết năm 1868, Đặng Huy Trứ nhớ lại việc dạy dỗ của cha đối với mình, vừa thân thương vừa nghiêm khắc: “Cha tôi truyền dạy cho ý chính từng chương, lý lẽ từng đoạn rõ ràng như dạy đứa trẻ chưa biết chữ nào, thỉnh thoảng lại đem những điều nghe biết được trước kia ra hỏi, yêu cầu phải trả lời ngay sau tiếng gõ của cha tôi, nếu ngần ngừ không trả lời ngay được hoặc trả lời không rõ ràng, rành mạch đều bị quở trách”[2].
Phương pháp giáo dục, tuy nghiêm khắc song cũng buộc người học phải suy nghĩ, nhận thức ngay để trình bày sự hiểu biết của mình; điều này ảnh hưởng nhiều đến những ý tưởng cải cách giáo dục của Đặng Huy Trứ. Cần phải nhấn mạnh: trong bối cảnh lịch sử thời đầu nhà Nguyễn, trước nguy cơ mất nước, cũng như nhiều nhà yêu nước khác có kiến thức sâu rộng, không bảo thủ, rụt rè khi tiếp cận cái mới, Đặng Huy Trứ là một nhà canh tân xuất sắc đương thời. Một nhà nghiên cứu đã cho rằng Đặng Huy Trứ là một nhân vật tiêu biểu trong số ít người lúc bấy giờ, ông có “nhân cách độc đáo và tài năng đa dạng, dấn thân hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn hóa, giáo dục, kinh tế…ở đâu cũng thể hiện những tư tưởng đặc sắc”[3].
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung về mặt giáo dục – một lĩnh vực mà Đặng Huy Trứ đặc biệt quan tâm và có nhiều ưu thế. Bởi vì, trước khi ra làm quan, Đặng Huy Trứ đã dạy học khoảng 10 năm ở quê nhà; do đó, ông có điều kiện rất gần gũi với nhân dân, hiểu rõ nguyện vọng chính đáng của phụ huynh là muốn cho con em được học để làm người, xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.
Đặng Huy Trứ chú trọng việc giáo dục cho nhân dân, đặc biệt là lớp người trẻ, vì ông xuất thân từ gia đình dạy học lâu đời, lại sớm nhận thức được sức mạnh to lớn của nhân dân.
            “Ngô nhân tự hữu hồi thiên lực
            Ngao cực lô khôi vị túc khoa”
Dịch nôm:
            “Dân ta đủ sức xoay trời lại
            Chẳng đáng khoe chi chuyện vá trời”[4]
Tuy nhiên để cho dân có sức mạnh của Bà Nữ Oa “đội đá vá trời” và làm xoay chuyển tình thế, người dân cần phải được học hành mới có thể thoát khỏi cái nhọc nhằn, nhục nhã trong cuộc sống:
            “Giờ dần đã tính kế sinh nhai,
            Ăn vội cơm đèn bữa sáng mai
            …Thợ cày thoáng nhận nhau qua bóng.
            Cơm trắng còn vương dính ở môi”[5]
Đây là một quan điểm nhận thức sâu sắc của Đặng Huy Trứ, làm cơ sở xuất phát cho mọi suy nghĩ, hành động của ông khi là thầy đồ nghèo hay lúc ra làm quan. Nó thể hiện ở nhiều lĩnh vực mà ông đề xuất ý tưởng, kế hoạch canh tân đất nước.
Về giáo dục, khác với nhiều người đương thời ông nêu rõ quan điểm về mục đích học tập là “học để làm người” như ông cha ta đã xây dựng từ lâu, như bị lối học hành, thi cử chỉ mong để làm quan chức làm sai lệch, hủy hoại truyền thống tốt đẹp đó “học để làm người”. Trong tình hình chế độ phong kiến suy yếu, nhân nghĩa nhường cho bạo tàn, chốn thi cử là trường mua quan bán chức. Đặng Huy Trứ nhấn mạnh việc học hành phải nhằm đạt được “nhân hòa”:
           
Tự cổ nhân hòa đệ nhất nghĩa
            “Thiên thời, địa lợi tận do chi”

Dịch thơ:
            “Muôn thuở nhân hòa xem trọng nhất
            Mới ra địa lợi vốn thiên chi"[6]
Sự thành công, thất bại trong hoạt động của con người, theo người cưa, chịu sự chi phối của ba yếu tố: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Trong ba yếu tố ấy, Đặng Huy Trứ xem “nhân hòa” là quan trọng nhất, có tính quyết định. Ông cũng nói thêm, muốn có “nhân hòa’ thì phải hiểu biết mà muốn hiểu biết thì phải học. Tư tưởng này có thể trở nên lỗi lạc dưới thời phong kiến suy yếu nhà Nguyễn, song nó đã tiếp thụ tư tưởng truyền thống giáo dục của cha ông và để lại bài học kinh nghiệm cho chúng ta ngày nay khi xác định đúng mục tiêu đào tạo.
Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, dù là một nhà nho tiến bộm biết rõ sức mạnh của nhân dân, nặng lòng yêu nước, vẫn mong đánh đuổi quân Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc, Đặng Huy Trứ vẫn chưa thoát khỏi lý tưởng “trung quân, báo quốc”, nên ông xác định trách nhiệm của người đi học là:
            “Ăn lộc ta càng lo việc nước
            Tính sao? Hòa, chiến giữ, hay nhường?”[7]
Nỗi băng khoăn “ăn lộc vua phải lo việc nước” do chưa thể thoát khỏi tư tưởng quân vương, nhưng không phải sự tuân lệnh một cách mù quáng mà đặt vấn đề để suy nghĩ, tìm câu giải đáp thích hợp, có hiệu quả nhất. Tư tưởng này trở thành một phương pháp giáo dục của Đặng Huy Trứ, phương pháp này có nhiều điểm khác, trái ngược với lối học kinh viện kiểu cũ. Ông đề ra phương pháp dạy học theo kiểu “vấn nan” với chủ trương “sư đệ tương trưởng” (thầy trò cùng trưởng thành), thực chất là “dân chủ hóa” việc giảng dạy và học tập – một quan niệm mới, tiến bộ so với lúc bấy giờ.
“Phương pháp vấn nan” được Đặng Huy Trứ diễn dạt như sau:
            “Việc học của trò
            Vấn nan cần chính xác
            Trò rằng: hiểu rõ thêm
            Thầy càng thêm uyên bác
            Dạy học cần gắng sức,
            Thầy trò không vướng chân
            Cùng nhay đi thuận bước”[8]
Phân tích phương pháp dạy học mà Đặng Huy Trứ đề ra, chúng ta thấy có những điểm chung, giống với phương pháp tích cực hóa việc dạy và học phổ biến ở nhiều nước theo xu hướng của giáo dục hiện đại và đang thực hiện ở nước ta nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Qua phươn pháp dạy học của Đặng Huy Trứ, chúng ta nhận thấy ông đã quan niệm đúng rằng: dạy và học là hai khâu của một quá trình thống nhất của việc dạy học, có tác động lẫn nhau. Kết quả dạy của thầy được phản ánh trong kết quả học tập của học sinh, quá trình học tập của học sinh với những suy nghĩ, thắc mắc, giải đáp cũng góp phần làm cho thầy tiến bộ. Như vậy, cả thầy và trò đều phát triển trong quá trình dạy học vì “thầy trò không vướng chân” mà “cùng nhau đi thuận bước”.
Khai thác các di thảo của Đặng Huy Trứ nói chung, về giáo dục nói riêng, chúng ta có thể nhìn thấy nhiều điều bổ ích về nội dung, quan điểm, phương pháp luận, mà trong báo cáo này chúng tôi không thể trình bày. Để hiểu đúng hơn về Đặng Huy Trứ, chúng ta có thể so sánh với Nguyễn Trường Tộ; nhưng vấn đề như vậy là quá lớn, ở đây chúng ta chỉ giới thiệu về mặt giáo dục.
Nguyễn Trường Tộ trong khoảng 60 bản điều tràn của mình đã đề cập đến nhiều lĩnh vực: riêng về giáo dục, trong “Tế cấp bát điều” (“tám điều cần làm”), ở điều 4 ông xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng. Ông đã chỉ trích việc học tầm chương trích cú theo lối cũ và đề nghị mở các khoa đào tạo về nông chính, thiên văn và địa lý, công – kỹ nghệ, luật học, dùng quốc âm (lấy chữ Hán đọc theo âm Việt), để dạy học. Nguyễn Trường Tộ đã có những đề nghị về việc đào tạo một cách thiết thực, song chưa nêu được quan điểm, mục tiêu đào tạo và đổi mới phương pháp dạy học như Đặng Huy Trứ. Tuy Đặng Huy Trứ không có điều kiện hiểu biết nhiều về nước ngoài để kiến nghị một cách cụ thể như Nguyễn Trường Tộ, song cũng có tầm nhìn chiến lược về giáo dục. Sự kết hợp những tư tưởng này sẽ góp phần canh tân đất nước, tạo nên sức mạnh của dân tộc trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc hùng mạnh. Trách nhiệm của triều đình Huế chính là ở chỗ không biết lắng nghe những tư tưởng, kế hoạch canh tân đất nước của những người như Đặng Huy Trứ và Nguyễn Trường Tộ.
Qua việc tìm hiểu về Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ với những đề nghị canh tân đất nước nói chung, canh tân về giáo dục nói riêng của các ông, chúng ta càng nhận thấy rõ hơn sự trì trệ của triều đình Huế, một nguyên nhân khiến đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Những con người như Nguyễn Trường Tộ, Đặng Huy Trứ xứng đáng được người đời sau ngưỡng mộ, học tập.



ß Trường đại học Sư Phạm – ĐH Huế
[1] Hô Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần thứ hai, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr. 28.
[2] Nhóm Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ – con người và tác phẩm, NXB Tp. HCM, 1990, tr. 62.
[3] Trương Thị Yến…Xu hướng mới trong lịch sử Việt Nam – những gương mặt tiêu biểu. NXB Văn Hóa – Thông Tin – Hà Nội, 1998, tr. 185.
[4] Nhóm Trà Lĩnh; Đặng Huy Trứ, Sđd, tr. 90.
[5] Sđd, tr. 73
[6] Sđd, tr 190.
[7] Sđd, tr. 151.
[8] Sđd, tr 128.

LÊ CHÂN (? – 43)


Nữ tướng của Hai Bà TRưng*, quê ở Đông Triều. Tương truyền rằng bà xinh đẹp và giỏi võ. Sau khi cha mẹ bị thái thú Tô Định giết chết, bà chạy ra vùng viển (An Dương), tập hợp dân quê, khai phá đất đai trồng trọt, đồng thời chiêu tập thanh niên, rèn luyện võ nghệ chuẩn bị nổi lên đánh quân Hán. Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Hát Môn, bà đưa người của mình đến gia nhập, lập được nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến đánh đuổi Tô Định. Cuộc khởi nghĩa thành công, Trưng Trắc lên ngôi phong bà là Thánh Chân công chúa, giữ trọng trách “Chưởng quản binh quyền nội bộ”. Khi quân Mã Viện kéo sang đánh, bà chặn thủy binh địch bằng cách ngăn sông lấp suối. Do lực lượng ít ỏi, cuộc kháng chiến thất bại, Ha Bà Trung tự tận, bà cũng tự sát theo.

L.V.N.

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ VÀ THỜI ĐẠI: NHỮNG NGHỊCH LÝ



PGS. TS Phạm Xanhß

Vào giữa thế kỷ XIX một vấn đề nổi cộm trong chính sách đối ngoại của các nước phương Đông là làm thế nào để bảo vệ được độc lập dân tộc và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trước sự bành trướng thế lực và các cuộc xâm lăng của các nước phương Tây. Trong các giải pháp của các nước Đông Bắc Á được xây dựng trên nền tảng Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên ta có thể thấy một nét chung đầy lý thú: cố gắng hòa nhập yếu tố cũ và mới, truyền thống vả hiện đại trên bước đường phát triển của đất nước. Nhưng ở nước ta, dưới triều Nguyễn, tình hình diễn ra hoàn tòn khác. Trước vận mạng sống còn của đất nước những nho sĩ thức thời lúc đó đã trăn trở, suy ngẫm để cuối cùng bật lên những tư tưởng chói sáng trên những trang điều trần gửi tới triều đình. Những tư tưởng lớn của cả một lớp Nhật Bản, hợp thành một dòng phái duy tân mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Trường Tộ. Tiếc thay những tư tưởng đó không được đưa vào cuộc sống, không trở thành hiện thực, dù là một phần. Thế lực nào cản trở? Nguyên nhân nào làm cho xu hướng cải cách hợp thời ấy không đơm hoa kết trái trên đất nước vốn ít nhiều có truyền thống canh tân? Bài viết này truy tìm những căn nguyên làm cho những đế nghị duy tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ và rộng hơn của cả dòng phái duy tân cuối thế kỷ XIX bị thui chột, lụi tàn.
Về phương pháp luận, muốn đánh giá đúng đắng một nhân vật lịch sử nào đó cần đặt họ vào thời đại lịch sử mà họ đã sống và hành động. Chúng tôi sẽ không đi chệch nguyên tắc đó. Nhhân dây cũng thưa rằng, trong nghiên cứu lịch sử hiện nay có xu hướng nổi lên khá rõ – khai thác thái quá tính chính trị những vấn đề lịch sử được nghiên cứu. Vì thế, dẫn tới một số lệch lạc trong nghiên cứu lịch sử như không tôn trọng tính khách quan, hoặc hiện đại hóa lịch sử v.v…Trên tinh thần đó, chúng tôi đặt Nguyễn Trường Tộ vào thời đại mà ông đã sống và hành động để nghiên cứu và phán xét, chứ không xuất phát từ ý muốn chủ quan được hình thành trên cơ sở những yêu cầu bức bách hiện thời. Nghiên cứu con người Nguyễn Trường Tộ với toàn bộ di sản của ông và thời đại ấy trong những nghịch lý khiến cho thời đại ông không tiếp nhận những tư tưởng lớn của ông. Dưới đây chúng tôi xin lần lượt trình bày một số những nghịch lý chủ yếu.
Nghịch lý 1: Một trí thức tiên tiến và đám vua quan lạc hậu.
Nguyễn Trường Tộ là một người thông minh. Lúc còn đi học, ông đã nổi tiếng về sự uyên bác nên mọi người gọi ông là “Trạng Tô”. Trong gần 10 năm đèn sách, ông có một vốn Hán học hết sức phong phú, một khối lượng kiến thức đồ sộ  về văn hóa phương Đông, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc. Cũng ở thời kỳ học chữ Hán này, ở ông đã bộc lộ năng lực quan sát, phát triển những điều mới mẻ mà ông cảm nhận được ở thế giới xung quanh. Có lẽ tư chất này giúp ông không ngỡ ngàng, mà hội nhập nhanh chóng khi lần đầu tiên tiếp xúc với nền văn minh phương tây qua Giám mục Gauchier (tên Việt Nam là Ngô Gia Hâu. Năm đó Nguyễn Trường Tộ mới 25 tuổi, độ tuổi đẹp nhất về sự tiếp nhận tri thức của một đời người. Trong gần 3 năm giúp Gauchier dạy chữ Hán cho Chủng viện Xã Đoaiì và nhận từ Cha Hậu tiếng Pháp và một vài môn học phổ thông. Cha Hậu đã phát hiện ở ông những đức tính đốt đẹp của một con người có tài. Cha hậu cho ông đi thăm Hương Cảng, Singapore (những vùng đất thuộc địa của Anh) và rồi gửi ông tới Paris du học hơn 2 năm. Những gì thu nhận được trong những chuyến đi, đặc biệt là những năm tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Pháp là nền tảng căn bản hình thành tư tưởng duy tân, ở ông đã kết hợp tinh hoa văn hóa Đông – Tây. Thành quả của sự kết hợp ấy được biểu hiện rõ nét, đầy đủ, trọn vẹn trong toàn bộ những bản điều trần gửi triều đình Huế từ năm 1861 đến năm 1871. cũng ở đây nổi lên khối lượng kiến thức đồ sộ, tầm nhìn xa rộng và sự nhạy cảm tinh tế với thời cuộc của ông. Tất cả những điều đó làm cho ông vượt lên trên những người đương thời, tương phản gay gắt với vua Tự Đức và các quan đại thần, những người chăn dắt muôn dân, cai trị đất nước và đang nắm vận mệnh của xã tắc. Chúng ta điều biết, Tự Đức là một ông vua thể chất ốm yếu, bệnh đậu mùa đã để lại ở ông vua này di chứng nặng nề suốt cả cuộc đời – không có khả năng sinh con, thỉnh thoảng lên con chóng mặt, ngất xỉu. Bài văn ở bia mộ do chính Tự Đức soạn năm 1867, tức trước khi mất 16 năm (mất năm 1883) cung cấp một lời thú tội:
“Ta còn bị những cơn đau như sét đánh làm ta suýt chết. Ta ngất đi rồi tỉnh lại. Ta thường bị chóng mặt, mắt mờ…Bệnh tật làm cho ta sao lãng các nghi lễ truyền thống và làm cho ta không thể chăm lo các việc triều chính nhiều hơn nữa”[1].
Với thể chất như vậy, suốt đời Tự Đức tự giam mình trong cung cấm. Có lẽ, cả đời vua chỉ có một chuyến di duy nhất – ra Hà Nội trong dịp lễ phong vương của vua Thiệu Trị và đều đặn mỗi năm 2 lần ra của biển Thuận An, cách huế không đầy 10km, để tránh thời tiết nồng về mùa hạ và rét về mùa đông. Một ông vua như vậy làm sao có được tính cách của một nhà chính trị xông xáo, quyết đoán khi đất nước đang ở trong tình hình nước sôi lửa bỏng.
Toàn bộ những chính sách của triều đình được hình thành tại Huế từ thông tin méo mó nhận được qua một kênh duy nhất là các quan đại thần, tách khỏi cuộc sống sôi động của đất nước hệt như “ếch ngồi đáy giếng”. Tự Đức, dù là người uyên bác bậc nhất thời đó, cũng chỉ là môn đồ cuồng nhiệt của Khổng học, một nhà thơ hơn là một nhà chính trị. Về mặt tư tưởng, Tự Đức và các nho sĩ thời đó tỏ ra “bảo hoàng hơn cả vua”, tất cả đều nhất nhất bám giữ lấy những định đề Nho giáo làm chuẩn mực trong hành động, trong khi đó đất nước sinh ra Nho giáo và các nước lân bang đang chuyển động theo hướng mềm hơn. Chín năm sau khi Tự Đức mất, ông Paker, lãnh sự Anh tại Trung Hoa ghé thăm Huế đã chứng kiến một cuộc đón tiếp của triều đình: “Từ cổng, chúng tôi tiến vào giữa hai hàng quan lại, con số đến 600 người, tất cả đều mặt triều phục, có vẻ là triều phục nhà Minh bên Trung Hoa”[2].
Chúng ta không biết tường tận ý kiến của Tự Đức phê phán các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ trong kho Châu bản nhưng xét theo những điều trình bày ở trên chúng ta thấy Tự Đức với tư cách người đứng đầu nhà nước và cả triều đình Huế chưa sẵn sàng tiếp nhận những tư tưởng mới mẻ, trong đó có những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ. Nhà Nguyễn thời đó đã thiếu một minh quân như Minh Trị bên Nhật Bản.
Nghịch lý 2: Chiến tranh và hòa bình
Về Nguyên tắc, duy tân đất nước chỉ được thực hiện trong thời bình. Ở thời đó có đầy đủ điều kiện về thời gian và nhân tài vật lực cho việc canh tân, chấn hưng đất nước. Nguyễn Trường Tộ true thay, về thời gian những tập điều trần của Nguyễn Trường Tộ được soạn thảo, đệ trình từ năm 1861 đến 1871, đúng vào thời kỳ đất nước có chiến tranh, giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông (1862), rồi toàn xứ Nam kỳ lục tỉnh (1867) và đang muốn tìm cớ cho cuộc viễn chinh Bắc Kỳ. Trong thời chiến, đặc biệt khi đất nước đang đứng trước nguy cơ bị thôn tính hết, giải pháp duy nhất hợp với truyền thống là tập trung trí tuệ, sức lực, của cải cho cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Mọi khoản chi đều dồn hết cho quân sự. Trong bối cảnh đó, còn đâu thời gian, sức lực và tiền của để thực hiện những dự án khổng lồ của Nguyễn Trường Tộ. Thời chiến làm sao có thể chấp nhận những đề án ngốn nhiều tiền của để rồi nguy cơ bị tàn phá, nó chỉ chấp nhận những điều chỉnh phù hợp với chiến tranh, chủ yếu nhằm mục đích quân sự. Ý tưởng tốt đẹp của Nguyễn Trường Tộ không tính tới khả năng thực hiện khi đất nước có chiến tranh.
Nghịch lý 3: Truyền thống và phản truyền thống
Nước ta cũng tồn tại bên cạnh một nước lớn có một nền văn minh bậc nhất thế giới, lấy bành trướng và đồng hóa các dân tộc khác làm nền tảng trong chính sách đối ngoại của họ. Để tồn tại và phát triền với chính bản sắc riêng của mình, dân tộc ta đã tự lựa chọn cho mình một giải pháp tối ưu – chống trả một cách kiên quyết và bền bỉ. Tính cách đó được lưu truyền từ thế hệ nọ sang thế hệ kia, để rồi từ đó hình thành nên một truyền thống tốt đẹp – bất khuất trước quân thù. Giặc đến, trên dưới đồng lòng quyết đánh, đánh một năm không thắng, đánh nhiều năm cho đến khi trên đất nước không còn bóng giặc mới thôi. Ai dao động ngã nghiêng, ai cầu hòa với giặc, ai vì miếng cơm manh áo theo giặc đều bị kết tội đi ngược với truyền thống, phản bội Tổ quốc, dù đó là vua. Trước Nguyễn đã như vậy, thời Nguyễn vẫn như vậy. Dưới thời Nguyễn chữ trung quân của nho giáo – xiềng xích buộc chặc thần dân vào ngai vua, đã bị bẻ gẫy từng mắt một, có lẽ bắt đầu từ Trương Định và tiến tới đỉnh điểm ở cuộc khởi nghĩa của Trần Tấn và Đặng Như Mai trên đất Nghệ Tĩnh năm 1874 khi triều đình Huế ký hàng ước Giáp Tuất thừa nhận quyền cai trị của thực dân Pháp trên miền lục tỉnh Nam kỳ.
                        “Rập rình trống đánh cờ xiêu
            Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
Vua và triều đình từ cầu hòa đến cắt đất cho giặc đã bị kết tội phản bội Tổ quốc, đi ngược truyền thống bất khuất và trở thành đối tượng của phong trào kháng chiến. Trong con mắt của nhân dân vua đã như vây, huống chi Nguyễn Trường Tộ, mặc dù trong thâm tâm và trong những tư tưởng ở các tập điều trần, hòa chỉ là một kế sách tranh thủ thời gian duy tân đất nước, chuẩn bị mọi điều kiện để lấy lại những vùng đất đã mất. Dù là như vậy, đối với dân ta, hòa có nghĩa là đi ngược lại với truyền thống, phản lại truyền thống, làm nhục ý chí, phân tán lực lượng, trong cuộc chiến đấu chống quân thù. Do vậy, phe chủ hòa trong đó có dòng phái cải cách đã bị nhân dân lên án, kết tội, không có chỗ đứng trong tâm thức của nhân dân.
Nghịch lý 4: Lương và Giáo
Lương và Giáo viết gọn như vậy, nhưng thực ra đây là một cặp khái niệm chỉ hai cộng đồng người – cộng đồng người theo đạo Thiên chúa giáo (gọi là Giáo) và cộng đồng người nằm ngoài tôn giáo (gọi là Lương). Hai cộng đồng người đó đã tiến hành những cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt, đôi khi dẫn tới những cuộc “bách hại” suốt nhiều thế kỷ, đặc biệt dưới thời Nguyễn, bởi lã “Thiên chúa giáo đã gia nhập đất Việt cùng một chiếc thuyền và cùng một ngọn nước với bọn đế quốc đi cướp thuộc địa”[3].
Trong con mắt của những người bên Lương, những người bên giáo đã đặt Chúa trời lên trên Tổ tiên, đã đặt “Thiên chúa trên Tổ quốc”, “đạo trước dân tộc”, người theo giáo đã đứng về phía địch, giúp giặc và phản bội Tổ quốc. Những điều đó đã đi qua nhiều thế hệ để rồi đến khi Nguyễn Trường Tộ trở thành những định kiến, những định kiến mù quáng đến nỗi không phân biệt được những người công giáo kính chúa yêu nước và những người công giáo theo giặc. Đối với Nguyễn Trường Tộ, điều trớ trêu là ở chỗ đó. Nguyễn Trường Tộ một trăm phần trăm là người công giáo  kính chúa yêu nước. Trong Thiên hạ đại thế luận ông đã bộc bạch: “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không hết lời là bất nghĩa. Nay tôi tuy ở chốn giang hồ mà lòng vẫn ở nơi đế khuyết, tôi không nỡ trong nước mà chia sẻ, trăm họ lưu ly, nên chi chức phận thấp hèn mà cũng chẳng ngại bày tỏ đường đột”. Năm 1871, trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông vẫn trăn trở sao cho nước mạnh dân giáu. Định kiến hẹp hòi với người theo công giáo đã không tính đến điều đó, chỉ xếp ông theo một chuẩn mực đã định sẵn: ông là người theo đạo Thiên chúa, đã từng hợp tác với giặc Pháp nên không tốt, thế thôi. Định kiến đó vẫn theo mãi cho tới gần đây. Năm 1961 vẫn có người cho rằng: “Nguyễn Trường Tộ là một con người có nhiều nghi vấn về chính trị”[4].
Thuở này còn thế, thuở đó chắc còn nặng nề hơn.

Nghịch lý 5: Thực và ảo
Trong dòng phái duy tân nửa cuối thế kỷ XIX những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ là hệ thống nhất, đầy đủ nhất và toàn diện nhất. Phần lớn những đề nghị của ông là thực tế, cụ thể và chi tiết, do vậy có tính khả thi cao. Bên cạnh ưu điểm lớn đó, trong các bản điều trần, đây đó lộ ra những điều không thực tế, tựa như ông sao chép nguyên văn những điều đọc được, thấy được ở nước người, không có tính đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta thời đó. Có những điều không tưởng đến lạ và như vậy không có tính khả thi. Thực và ảo, hiện thực và không tưởng trở thành hai cực đối lập trong một số điều trần của ông. Ở đây chúng tôi xin dẫn ra làm ví dụ những điều không tưởng trong một số điều trần của ông.
Chẳng hạn, trong một bản điều trần Nguyễn Trường Tộ nêu ra 4 biện pháp dẹp hải tặc nhằm phát triển nội ngoại thương, trong đó theo chúng tôi có hai biện pháp là không tưởng:
1. Nhà nước nhờ Pháp đàn áp
2. Xúc tiến việc đào kênh nội địa thay cho vận chuyển đường biển. Cụ thể, theo ông đề nghị Nhà nước đào một con kêh từ Hải Dương đến kinh đô Huế.
Làm sao có thể nhờ kẻ thù giúp ta dẹp hải tặc được. Thực dân Pháp trong quá trình thôn tính nước ta đã ép triều đình Huế, mượn tay triều đình Huế làm những việc vì lợi ích của chúng. Điều đó thể hiện rỏ trong hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862 có một điều khoản nói rõ Pháp sẽ trả Vĩnh Long cho triều đình Huế với điều kiện triều đình dẹp yên những cuộc nổi dậy của nông dân các tỉnh miền Đông mà chúng chiếm đóng, mà trung tâm là cuộc khởi nghĩa Trương Định ở Tân An, Gò Công thuộc tỉnh Định Tường. Còn giải pháp thứ hai cũng tương tự. Làm sao với kỹ thuật của ta, sức của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX lại có thể đào được một con kênh nối sông Hồng ở bắc với sông Hương ở miền Trung, dù là đào từng đoạn nối sông Hồng với sông Đáy, nối sông Đáy với sông Mã, nối sông Mã với sông Lam, nối sông Lam với sông Gianh, nối sông Gianh với sông Thạch Hãn, nối từ Thạch Hãn tới sông Hương. Kỹ thuật thời đó chưa cho phép xuyên thủng dãy Hoành Dơn (ở đoạn đèo Ngang bây giờ) để dẫn nước sông Lam (Nghệ An) hòa vào sông Gianh (Quảng Bình). Mãi đến đầu thế kỷ XX khi xây dựng tuyến đường sắt xuyên Việt, nước Pháp không đủ khả năng khắc phục chướng ngại vật thiên nhiên đó, cho nên khi đường sắt tới Vinh, họ đã “nắn” cho đường sắt ngược lên Trường Sơn ở Tân Ấp (Quảng Bình) rồi từ đó chạy xiên về Đồng Hới. Cực chẳng đã mới làm như vậy, chứ thực ra đoạn đường s8at1 từ Vinh đến Đồng Hới là đoạn đường phi kinh tế nhất.
Năm nghịch lý đã nêu (4 nghịch lý khách quan và 1 nghịch lý chủ quan) tạo thành một bức tường kiên cố không thể vượt qua. Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ và của cả dòng phái cải cách nửa cuối thế kỷ XIX đã va phải bức tường kiên cố đó, vỡ tung thành những mảnh vụn, để rồi chỉ còn lại trong ký ức đẹp đẽ của người Việt chúng ta như những ước mơ về con đường dẫn đến dân giàu, nước mạnh.



ß KHoa Lịch Sử trường ĐHKHXH và NV, Hà Nội
[1] Bia mộ dựng ở Khiêm Lăng, Huế.
[2] Dẫn theo Yoshihara, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Ban khoa học xã hội Thành ủy TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1990, tr. 184.
[3] Hồ Vương. Trở về dân tộc, tập san Nhịp cầu, số 2, 1962.
[4] Xin xem bài: Góp them ý kiến về việc đánh giá Nguyễn Trường Tộ của hồ Hữu Phước và Phạm Thị Minh Lê. TC Nghiên cứu lịch sử, số 31, 10 – 1961.

KÝ CON (Đoàn TRần Nghiệp, 1908 – 1930)


Một trong những Đảng viên tích cực của Việt Nam Quốc Dân Đảng, có tài liệu cho rằng tên thật là Đặng Trần Nghiệp, bí danh là Doãn, Sĩ Hiệp, sinh năm 1908 tại phố Hàng Sơn, Hà Nội, quê làng Khúc Thủy, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (Hà Nội) trong một gia đình làm nghề kim hoàn. Năm 18 tuổi Đoàn Trần Nghiệp phải vào làm cho hãng Goda ở Hà Nội với chân bán hàng. Đầu năm 1928, ông được giới thiệu vào Việt Nam Quốc Dân Đảng sau được giao việc trông coi và mua bán, xuất nhập cho khách sạn Việt Nam, một thương điếm do Việt Nam Quốc Dân Đảng mở ở số 38 Hàng Bông Đệm (9.1928). Là người nhỏ tuổi hơn cả nên nhân viên trong khách sạn gọi đùa ông là “Ký Con”, cái tên Ký Con gắn với ông từ đó. Sau vụ ám sát Bazin (9.2.1929), khách sạn Việt Nam bị đóng cửa, thực dân Pháp bắt Ký Con nhưng vai trò của Đoàn Trần Nghiệp lúc đó chưa quan trọng và cũng không có chứng cứ nên ông được thả. Từ đó ông hoạt động sát cánh bên lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng là Nguyễn Thái Học. Thấy ông là người gan dạ, kín đáo nên Nguyễn Thái Học tin tưởng, cử vào Ban ám sát, một tổ chức chuyên việc trừng trị những tên thực dân, Việt gian, những kẻ phản bội tổ chức. Người ta kể rằng, Đoàn Trần Nghiệp có dáng người nhỏ bé thư sinh, nước da trắng mịn, khuôn mặt trái xoan, cặp mắt sáng nhưng có vẻ mơ màng, đôi môi đỏ như son lúc nào trông cũng như mỉm cười, tính điềm đạm ít nói, thế nhưng ông hoàn thành một cách xuất xắc công việc ở Ban ám sát với một thái độ bình tĩnh và lạnh lùng. Điển hình là vụ xử tử Nguyễn Văn Kinh, một người trước ở trong Việt Nam Quốc Dân Đảng nhưng đã phản bội tổ chức và gây nhiều thiệt hại cho Đảng. Bữa đó, ngày 6.9.1929, ông rút súng bắn vào đầu Kinh rồi thản nhiên để vào ví kẻ phản bội bốn chữ “Không Giữ Lời Thề” và ung dung lên xe đạp đi. Đoàn Trần Nghiệp cũng là người biết rõ phải, trái và hành động theo nhận thức của mình. Đầu năm 1930, có một số đảng viên không nhất trí quyết định khởi nghĩa của Đảng ở nhiều địa phương tại Bắc Kỳ, vì thế các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng ra lệnh cho Đoàn Trần Nghiệp phải thủ tiêu những người bất đồng quan điểm này. Đoàn Trần Nghiệp được giao thủ tiêu Lê Hữu Cảnh nhưng ông đã không làm việc đó. Sau này Lê Hữu Cảnh vẫn tiếp tục hoạt động tích cực cho Việt Nam Quốc Dân Đảng, khi bị thực dân PHáp bắt, đã ném bình mực vào tên cảnh sát PHáp, rồi nhảy lầu tự tử. Trong cuộc khởi nghã của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, Đoàn Trần Nghiệp phụ trách việc ném bom ở Hà Nội. Ông tổ chức Đội cảm tử mang bom ném vào nhà của Chánh mật thám Arnoux, vào Hỏa Lò, Sở Sen đầm, cảnh sát quận nhất và quận hai ở Hà Nội, cắt các đường điện thoại của thực dân ở đây. Sau vụ ném bom ở Hà Nội đêm 10.2.2930, Đoàn Trần Nghiệp bị Sở Mật thám Bắc Kỳ truy nã gắt gao. Chúng cho in hình ông và rải cáo thị hứa thưởng 5.000 đồng cho người nào giết hoặc bắt được Đoàn Trần Nghiệp. Ông phải rời Hà Nội xuống làng Dư Hàng, ngoại ô Hải Phòng. Tháng 6.1930 ông bị mật thám bắt ở Nam Định và bị đưa về Hà Nội. Trong Sở Mật thám Hà Nội, ông đã trả lời ký giả người Pháp Louis Roubaud rằng mục đích những việc làm của ông là “Để đuổi người Pháp ra khỏi xứ An Nam”.
Ngày 5.8.1930 Đoàn Trần Nghiệp đã bị kết án tử hình. Cuối năm 1930 ông bước lên máy chém tại địa điểm trước nhà ngục Hỏa Lò, Hà Nội.

V.H.L